Thầy Nguyễn Đăng Mạnh, ngôi sao vừa đã lặn

VOV.VN - Thế là thầy Nguyễn Đăng Mạnh đã ra đi. Đi mãi mà không trở lại. 

Không hiểu như thế có đúng ý thầy không, bởi mấy năm gần đây, lần nào gặp tôi, thầy cũng nói: “mình sống lâu quá”. Nhất là sau khi mấy người bạn cùng tuổi thân nhất lần lượt ra đi, thầy ít nói hơn, lúc nào trông cũng buồn buồn và lặng lẽ. Thi thoảng tôi đến thăm, lần nào cũng thế, suốt buổi hầu như chẳng thấy thầy nói câu gì. Cứ ngồi im, lặng lẽ như một ngôi sao cuối trời.

Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đăng Mạnh.

Cũng như một số GS cao tuổi, GS thật, tôi cứ nghĩ họ là những ngôi sao. Mỗi ngôi tỏa sáng một vùng, theo nhiều cách, nhiều kiểu sắc màu. Rồi đều giống nhau: cứ dần lặn vào bóng đêm của thế giới bên kia. Nhưng sau khi lặn vẫn hắt lại những ánh hồi quang rực rỡ, không bị mất hút, “vô tăm tích” trong thăm thẳm cõi trời.
Trong bầu trời văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Đăng Mạnh là một ngôi sao. Ngôi sao ấy vừa lặn, vừa khuất lấp sang thế giới bên kia lúc 17h10 ngày 9/02/2018. Một cánh hạc lớn vừa tiễn ông về nơi cuối trời. Ngôi sao ấy lặn rồi nhưng ánh hồi quang rất MẠNH, dường như nó còn rực rỡ hơn những ngày ông còn rong chơi ở chốn nhân gian.
Ánh hồi quang ấy trước hết hắt lên từ những bài viết tuyệt hay, những ý tưởng độc đáo, những nhận xét, bình luận tinh tế, sắc sảo. Hậu thế còn tiếp tục đọc, tiếp tục nghĩ về Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyên Hồng… thì người ta sẽ còn nhắc đến Nguyễn Đăng Mạnh. Không những thế, hồi quang ấy còn được tỏa ra từ con người, bản lĩnh và lối sống của ông, một trí thức Bắc Hà.
Sinh năm 1930, tuổi ngọ, như thế chỉ ít ngày nữa thôi, ông bước vào tuổi 89. Gần 90 năm với bao cay đắng, ngọt bùi, vinh quang có, nhục nhằn cũng có. Trong tâm lý Á Đông, khinh trọng đối với mỗi con người là cả một vấn đề. Rất ít người vượt qua được mặc cảm khinh trọng. Tuổi già, về hưu lại càng dễ có cái mặc cảm bị bỏ quên, bỏ rơi, không còn tác dụng gì, vô tích sự,… rất dễ tủi thân, dễ nổi cáu và dễ quy kết hành vi người khác là thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng mình,…
Với thầy Mạnh, tôi thấy hình như ông vượt qua được cái mặc cảm khinh trọng ấy. Ông và Hoàng Ngọc Hiến là hai người trong số ít bậc thầy không có mặc cảm này. Phải là người hiểu mình, hiểu chân giá trị của chính mình và thấm thía, trải nghiệm nhiều vinh nhục ở đời… thì mới có thái độ sống vượt mặc cảm khinh trọng; mới luôn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra, kể cả khi đã xảy ra những chuyện tày trời….
Khi đã về già, người ta rất dễ buồn vì chuyện sự nghiệp, nhất là những người đã có chút tiếng tăm. Nhìn quanh quẩn chẳng có gì để lại; viết ra rất nhiều nhưng chẳng ai nhớ, chẳng ai đọc những gì mình viết. Nguyễn Đăng Mạnh không có nỗi buồn này. Với phê bình văn học Việt Nam hiện đại, ông sẽ là một trong số ít cây bút được bạn đọc nhớ và họ còn đọc lại ông nhiều lần nữa. Rất ít ngòi bút phê bình vừa có chất văn, vừa có ý tưởng mới; dù ngắn hay dài đều có nghĩa lý, đều là “văn sư tử”; đều tạo được ấn tượng sâu đậm, sáng sủa và thật giàu màu sắc biểu cảm… như văn phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh. Thế thì làm gì ông phải buồn?
Khi về già, người ta thường hay buồn về chuyện con cái, cháu chắt. Tôi thường vẫn nghĩ, hạnh phúc gia đình trước hết được đo ở sự trưởng thành của thế hệ con cháu. Ối ông làm to mà con cái hư hỏng; rất nhiều bà mẹ lắm tiền mà con vô học, cháu hỗn láo, thậm chí vào tù… Ðó là nỗi buồn về nhân tính.
Một phương diện khác, lại là nỗi đau nhân hình. Chẳng may trời bắt tội, bố mẹ phải mang nỗi đau buồn vì những đứa con tật nguyền, không lành lặn về thể xác…Mà cả hai trường hợp đều không bỏ được; Thầy Mạnh cũng không có nỗi buồn này. Ông bà có hai người con: nếp có, tẻ có. Cả hai đều đã trưởng thành, có gia đình con cái bình thường. Con cháu đều ngoan hiền, hiếu thảo; thương yêu và kính trọng bố mẹ, ông bà hết mực. Có nhà riêng, nhưng gần đây ông bà ăn ở cứ Nam Bắc chia đôi: khi vào Nam với con trai, khi ra Bắc với con gái… tình nghĩa vẹn toàn. Thế thì có gì mà phải buồn!
Những tưởng thầy Mạnh chẳng có gì phải buồn, nhưng nghĩ ra thấy ông vẫn có nỗi buồn, thậm chí nỗi buồn không nhỏ. Cũng như Xuân Diệu, ông vốn là người thích “giao cảm”, khát khao được giao cảm, thích giao du, xê dịch sông nước; thích tiếp xúc, trò chuyện “nhậu nhẹt, tán phét” như ông thường nói. Và vì thế ông ham thưởng thức, nhấm nháp cái đẹp, cái hay bằng tất cả sự tinh nhậy của các giác quan…
Thế nhưng mấy năm gần đây, tai ông nặng dần, chân bước chậm hơn, răng bắt đầu rụng…Thành thử các cuộc chuyện trò, nhất là ở chốn đông người, ông nghe không được bao nhiêu. Mà phải chỗ đông mới vui; mới lắm thông tin, mới nhiều chuyện lạ; nhưng khốn nỗi càng đông, càng nhiều chuyện, càng vui nhộn, ông càng ít nghe được bấy nhiêu.
Ông rất thích thưởng thức ẩm thực, những món ngon, của lạ… thế nhưng bây giờ răng đã thế, làm sao ngon cho được ? Say mê những danh lam thắng cảnh, thích trèo lên tận Cột cờ Lũng Cú; sục chân vào bãi bùn tận đất mũi Cà Mau, sờ tận tay viên gạch rêu phong của những tháp Chàm cổ kính…nhưng bây giờ chân đã yếu rồi, lại mấy cái đinh chưa rút sau lần trượt ngã phải bó bột đóng đinh khi du giảng ở vùng đất phương Nam…thế nên đi xa, đi và đến những nơi đúng nghĩa ông thích, giờ hầu như chỉ còn là mơ ước.
“Khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp”, cũng là lẽ thường tình. Nhưng
đầu óc ông vẫn tỉnh táo, suy nghĩ vẫn mạch lạc rõ ràng, vẫn còn trẻ trung, mạnh bạo trong cách nghĩ, cách nói… chính thế mới làm ông buồn. Nỗi buồn tựa hồ như “lực bất tòng tâm”… Có điều, ở đời thường vẫn có sự bù trừ giữa các giác quan; cái này yếu thì cái khác mạnh dần lên.
Cái đang mạnh lên ở thầy Mạnh phải chăng là cuộc sống nội tâm, những suy tư, chiêm nghiệm hay dở của cả đời người đang dồn tụ thành biển cả trong ông. Càng tách bạch với ngoại giới, cái biển cả tâm hồn trong ông lại càng nhiều dịp nổi sóng tung bờ…những lớp sóng buồn trước sự nhố nhăng, đen bạc của cuộc đời.
Hai năm gần đây, tai ông nặng hẳn, chân bước chậm chạp, răng rụng gần hết, hầu như không nghe được, ăn ít biết ngon…Chắc thầy đã nghĩ, sống thế thì sống lâu làm gì? Thầy chán đời, chán mình; nhất là khi ốm đau phải cậy nhờ người khác, kể cả con cái, người thân. Những khi ấy ông càng bứt rứt, chán chường.
Những ngày này, Hà Nội lạnh tái tê, thầy Mạnh nằm viện với bệnh tình quá xấu. Xấu hơn cả tiết trời Hà Nội. Nằm viện với tình trạng mà khi tỉnh táo ông rất ghét. Không chỉ là chuyện phải nằm một chỗ. Đã hơn 1 tuần rồi, tôi vào và đau đớn thấy một cái ống nhựa chọc qua miệng thầy, họ nói là để thở bằng máy; ăn phải qua ống xông đằng mũi, dây nhợ ngủng ngoẳng cắm khắp nơi để đo các chỉ số huyết áp, nhịp tim, hơi thở…
Giờ thì thầy muốn nói, nhưng miệng vướng ống thở, vướng dây dợ thế, nói sao được. Cái máy trợ thính nhỏ xinh thế mà ông đã thấy khó chịu, huống chi bây giờ, hàng lô ống và dây. Bình thường ông thích có người đến tán chuyện cho vui, nhưng đó là lúc bình thường. Là người theo chủ nghĩa duy mỹ, ông vốn khinh bỉ sâu sắc sự nhếch nhác, cả trong đời thực lẫn văn chương; lại luôn rất tỉnh và tinh trong việc nhận ra sự nhếch nhác ấy.
Vì thế tôi nghĩ và chắc một điều: ông không muốn gặp nhiều người trong tình cảnh này. Tôi đã nghe nhiều lần ông đọc câu “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”. Ông thích đơn giản, gọn nhẹ, mộc mạc; ghét sự diêm dúa, cầu kỳ trong sinh hoạt và trang phục, giống hệt như những trang văn ông viết, giản dị, chân tình mà sâu thẳm trí tuệ và cảm xúc, mà lay thức lòng người…
Tôi đến thăm thầy. Thầy nằm im, bất động, mắt nhắm nghiền. Nắm bàn tay và lay gọi vài lần, thầy vẫn không tỉnh được. Có phải thầy đang mơ về một xứ xa xôi. Nơi ấy chỉ giản đơn là không còn phải đeo mấy cái thứ ống và dây ấy nữa; sao lằng nhằng quá thế này...Tôi biết thầy sẽ rất vui khi gặp lại những tri kỷ, tri âm; những người lúc còn sống đã gắn bó, thân thiết với thầy, những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Khải, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu và bao văn nhân khác nữa…
Ra đi sớm, thầy thì vui nhưng thầy có biết không, thầy đã để lại cho biết bao người một nỗi đau buồn khôn tả, một khoảng trống khó có thể lấp đầy. Thầy như một bức tranh trong căn phòng triển lãm mà nếu lấy đi vĩnh viễn để lại một khoảng trống trên tường như thầy từng viết.
Ngôi sao ấy vừa lặn rồi. Ánh hồi quang vẫn còn đó…nhưng lòng sao vẫn thấy lạnh lẽo vô cùng, lạnh hơn nhiều cái tái tê của đất trời Hà Nội. Vĩnh biệt người thầy cao quý của biết bao thế hệ học trò. Vĩnh biệt tác giả của nhiều bài phê bình còn in đậm mãi trong tâm khảm bạn đọc. Vĩnh biệt một con người chỉ biết cúi đầu trước hoa mai./.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từ trần

VOV.VN - Sau một thời gian lâm bệnh, Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đăng Mạnh đã từ trần vào chiều ngày 9/2/2018, hưởng thọ 89 tuổi.
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từ trần
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từ trần

VOV.VN - Sau một thời gian lâm bệnh, Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đăng Mạnh đã từ trần vào chiều ngày 9/2/2018, hưởng thọ 89 tuổi.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từ trần

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từ trần

VOV.VN - Sau một thời gian lâm bệnh, Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đăng Mạnh đã từ trần vào chiều ngày 9/2/2018, hưởng thọ 89 tuổi.