Âm thanh Tây Nguyên

(VOV) - Những âm thanh dù rộn ràng hay dịu êm, khỏe khoắn hay trữ tình... đều thể hiện một sự sáng tạo ngẫu hứng đầy đam mê

Với những năng lực và cảm xúc văn hóa gần gũi với thiên nhiên của bà con các dân tộc 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon Tum, không gian văn hóa ấy đã trở thành những cung bậc âm thanh tha thiết của cộng đồng người dân trên vùng đất đỏ từ ngàn đời nay. Mùa “Ăn năm uống tháng” ở Tây Nguyên bắt đầu khi những trận mưa rừng dứt hẳn. Đây là lúc người ta tạm quên đi những vất vả của cuộc mưu sinh để trả nghĩa với thần linh, cha mẹ và giao đãi với bầu bạn. Rượu Cần sẽ tuôn chảy cong vút theo cần, những cây đàn dân gian lên tiếng  rộn ràng và tha thiết… 

Phần kết hợp giữa các nhạc cụ Tây Nguyên (Ảnh: Hiếu Minh)

Trước tiên nói về những dàn Chiêng đồng. Dân tộc nào ở Tây Nguyên cũng có những dàn chiêng đồng. Chiêng có thể coi như tiếng nói tâm linh của con người, nó gắn bó với đời sống cộng đồng từ lúc mẹ cha làm lễ "thổi tai" cho đứa con yêu dấu mới ra đời, cho đến lúc đi về "bến nước làng Trời".

Mỗi dân tộc một âm điệu, mỗi dân tộc một cách diễn tấu khác nhau. Không ai biết các bộ chiêng của người Tây Nguyên có từ bao giờ, xuất xứ ở đâu. Nhưng tiếng chiêng ngân nga trong mọi lễ hội, luôn thể hiện tâm hồn và tính cách của các tộc người Tây Nguyên. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta chọn dàn chiêng Êđê làm đại diện cho "họ hàng nhà chiêng" các dân tộc Tây Nguyên tham dự Liên hoan Âm nhạc châu Á - Thái Bình Dương. Rồi lại lựa chọn 4 bài bản và một điệu hát Ây rây Êđê đưa vào kho tàng tinh hoa âm nhạc khu vực.

Chiêng Êđê có gì khác dàn chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên?

Một bộ chiêng Êđê có 10 chiếc. Ba chiếc có núm gọi là Ching, giữ vai trò là bè đệm cho hòa tấu. Bảy chiếc không có núm gọi là Knă, đảm nhận phần giai điệu chính (trừ chiêng Char). Thường người ta sử dụng có 9 chiếc, còn Ching Moong chỉ dùng khi có đám tang.

Những chiếc Knă đối đáp nhau, đuổi nhau trên bè trầm ngân nga của Char, của ana ching và nền của Mdu. Tiết tấu chiêng Êđê nhanh, dồn dập, sôi nổi như thác reo, gió thổi. Điều đó đòi hỏi nghệ nhân diễn tấu phải rất điêu luyện mới có thể cùng hòa tấu được.

Âm thanh dàn chiêng Knă Êđê vang xa và mạnh mẽ, bởi sự va đập của cả bồi âm từ 9 chiếc chiêng cùng một lúc tấu lên. Cũng còn bởi chiếc dùi làm bằng chất liệu gỗ cứng, hoặc tre đực, gõ thẳng vào mặt phẳng của những chiêng bằng. Trường ca Đam San đã từng mô tả tiếng chiêng Êđê: "Vút bay qua xà nhà vang lên tới 9 tầng mây xanh. Lọt qua sàn lan đến bảy tầng vực sâu đất đen...".

Một dàn chiêng khác cũng không kém phần độc đáo là chiêng Aráp của người Gia Rai. Một bộ chiêng Aráp có từ 7-l0 chiếc: ba chiêng núm giữ trách nhiệm phần đệm, còn lại là chiêng bằng. Đi đôi với chiêng Aráp bao giờ cũng có điệu múa Xoang. Người ta thường tăng số lượng những chiếc chiêng núm lên để làm cho phần đệm thêm đầy đặn, do đó có khi bộ chiêng núm đôi khi còn có bọc. Tiết tấu chiêng Aráp cũng rộn ràng, nhưng ngân nga hơn, mời gọi mọi người tay nắm tay, chân bước vào vòng Xoang và cùng hòa tiếng hát.

Kế đến là những chiếc Tù Và. Mọi dân tộc ở Tây Nguyên đều sử dụng sừng trâu bò làm tù và. Người Êđê gọi tù và là kipah; người M’Nông gọi là Nung; người Banar gọi T'diep... Chiếc sừng được cưa một đoạn ngắn, thủng cả hai đầu. Ở giữa, trên phần cong vào, khoét một lỗ nhỏ và đặt vào đó một chiếc "lưỡi gà" (như một chiếc dăm kèn), gắn lại bằng sáp ong. Khi thổi, tay trái cầm ngang thân kèn, ngón cái bịt đầu nhỏ, miệng ngậm vào "lưỡi gà". Tay phải day chặn ở đầu to để tạo ra những âm thanh khác nhau. Tiếng tù và dài hay ngắn, nhanh hay chậm là do điều khiển bằng lưỡi và luồn hơi, kết hợp với sự bịt mở các ngón tay ở cả hai đầu to nhỏ của tù và.

Chiếc Nung của người M’Nông đặc biệt hơn, gồm có hai chiếc lớn nhỏ. Nung lớn tiếng trầm hùng, vang dội, thường được dùng làm hiệu lệnh chiến đấu hay báo hiệu. Nung nhỏ tiếng thánh thót, lảnh lót, thường được sử dụng trong các lễ hội đâm trâu. Những buổi sáng sớm tinh mơ, khi sương mù còn che phủ núi rừng, hay những lúc hoàng hôn buông xuống... tiếng tù và xa xăm nghe da diết và gợi nhớ. Khác với dàn chiêng, tù và chỉ được dùng có nơi, có lúc.

Đàn T'rưng luôn gắn bó với mọi sinh hoạt đời thường của các dân tộc Jrai, Banar, Xê đăng... Trên nương rẫy, tiếng T'rưng xua đi cái mỏi mệt của một ngày lao động "lưng ngửa, mặt sấp", báo cho bầy thú sự hiện diện của con người, khiến chúng sợ không dám đến phá rẫy.

Có loại T'rưng tự hoạt động bằng sức nước: người ta treo những ống nứa to nhỏ, dài ngắn khác nhau, một đầu giữ nguyên mấu, bịt kín, đầu kia vạt nhọn chỉ còn nửa thân ống, cùng một hệ thống với que gõ ở ngoài suối. Tất cả lại được nối với một chiếc gàu nhỏ. Nước chảy, gàu đầy, kéo theo sự chuyển động của hệ thống dây buộc những ống nứa, khiến nó va đập vào nhau, vang thành âm thanh, ngân nga suốt đêm ngày.

Một loại đàn T'rưng khác thường dùng trong buôn làng, cũng gồm những ống nứa khác nhau. Ống to, dài, có âm thanh trầm; ống nhỏ, ngắn âm thanh cao, trong trẻo. Có khi chỉ một người gõ. Cũng có khi hai người cùng hòa. Một người đánh ống trầm, giữ phần đệm, người kia chạy giai điệu trên những ống cao. Tiếng T'rưng như suối chảy, chim kêu, rộn ràng vui khắp buôn làng. Dáng T'rưng cong như dáng núi đồi. Chỉ là những ống nứa mà biết nói lời vui.

Đàn Klông put là loại nhạc cụ rất đặc biệt của người Xê Đăng, Banar, Srá. Khác với T'rưng, Klông put là những ống nứa rỗng hai đầu. Cũng dài ngắn khác nhau, ống dài cho âm thanh trầm, ống ngắn cho âm thanh cao, được đặt trên một giá đỡ. Người đánh đứng khom lưng trước hàng ống, hai bàn tay vỗ vào nhau, tạo nên luồng không khí, lùa vào làm chuyển động trong lòng ống phát ra âm thanh. Tiếng Klông put khỏe khoắn, phóng khoáng, hơi bí ẩn xa xăm bởi những âm thanh bì bọp. Với loại đàn này, 2 người có thể chơi đàn cùng lúc, mỗi người vỗ một đầu. Đây là loại nhạc cụ chỉ có phụ nữ sử dụng.

Đàn T'rưng và Klông put đã được các nghệ sĩ chuyên nghiệp cải tiến, chơi được nhiều nốt đơn, những bài bản khó hơn. Dù biểu diễn ở trong nước hay quốc tế, khan giả luôn thể hiện sự yêu mến và khâm phục khả năng sáng tạo của các nghệ nhân Tây Nguyên.

Đàn Goong (còn gọi là Ting ning): Đàn này dân tộc nào cũng có, cấu tạo cơ bản giống nhau, gồm một ống nứa có khoét lỗ để mắc dây đàn. Dây đàn trước đây làm bằng cật nứa, nay được thay bằng dây thép nhỏ. Đàn có từ 6-12 dây, tùy theo tài nghệ diễn tấu của nghệ nhân.

Dân tộc Banar gắn thêm một quả bầu làm hộp cộng hưởng, giúp cho âm thanh vang hơn. Người Ê đê, Gia Rai không dùng quả bầu, nhưng kê lên một vật rỗng khi chơi đàn để tạo sự cộng hưởng. Tiếng đàn goong thánh thót, có sức truyền cảm, những sợi dây đàn rung lên dưới bàn tay tài hoa của người con trai, là phương tiện tỏ bày tình yêu nam nữ. Chính vì vậy ngày nay vẫn còn nhiều thanh niên biết chơi đàn này. Goong có mặt ở mọi nơi. Theo bước chân các chàng trai cô gái trên đường đi rẫy, hay lúc kề bên nhau tâm sự trong ngày lễ hội ở buôn làng...

Khó có thể chỉ nói đôi lời về kho tàng ca hát của các tộc người Tây Nguyên. Bởi dù là giai điệu rộn ràng hay dịu êm, khỏe khoắn hay trữ tình, tự sự hay hoan ca... mỗi bài là một sự sáng tạo ngẫu hứng đầy đam mê. Nó phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung, dí dỏm, thông minh, đôi khi cả thâm thúy trong ý tứ.

Hãy nghe người già Ê Đê dạy bảo con cháu:

"Măng nhớ lời cây le

Tắc kè lớn nhờ cây cao

Con lớn nhờ vào cha mẹ

Người lớn nhờ có bạn bè

ta trăm ngàn... "

Hay lời chàng trai Gia Rai thở than khi xa cách người yêu:

"Chạm phải con đường xưa tim anh rũ rụng

Chạm phải con đường mòn tim anh nóng bừng"

… hay lời tỏ tình mãnh liệt của cô gái Mạ:

"Lược ngà anh dắt mái tóc xoăn

Để em về đêm thương ngày nhớ

Em muốn ôm anh vào trước ngực

Như được đắp tấm chăn êm... "

Bạn có thích thú khi được cùng nhau hát:

"Ước váy em treo cành cây Tang

Ước áo anh treo cành cây Tung

Ước người ta cùng sưởi

Bên lửa hồng

Xuống suối cùng em bắt cá

Lên rừng cùng anh hái rau"

Chúng tôi đã đôi lần đến với Tây Nguyên dự các ngày vui của họ,trong đó có mùa “Ăn năm uống tháng”. Chúng tôi cũng rất vui khi biết rằng sau ngày đất nước thống nhất còn có thêm 20 dân tộc anh em ở phía Bắc vào định cư. Bên cạnh dân ca dân nhạc của người bản địa còn có thêm tiếng Sáo, Khèn dân tộc Mông, Tính Tẩu dân tộc Tày Nùng… rồi dân ca Thái, Mường, Dao… góp thêm bản sắc nơi đây phong phú đa dạng, làm đẹp thêm kho tàng âm nhạc dân gian của Tổ quốc Việt Nam./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Rực rỡ “Những ngày văn hóa Tây Nguyên tại Hà Nội”
Rực rỡ “Những ngày văn hóa Tây Nguyên tại Hà Nội”

Chương trình nhằm giới thiệu những giá trị văn hóa, sức sống mãnh liệt, sự trường tồn của bản sắc Tây Nguyên trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Rực rỡ “Những ngày văn hóa Tây Nguyên tại Hà Nội”

Rực rỡ “Những ngày văn hóa Tây Nguyên tại Hà Nội”

Chương trình nhằm giới thiệu những giá trị văn hóa, sức sống mãnh liệt, sự trường tồn của bản sắc Tây Nguyên trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam.