Về Thành Cổ Quảng Trị giữa tháng Tư lịch sử

Đất thiêng Thành Cổ là chứng tích của thời gian, minh chứng hùng hồn cho sự trường tồn và ý chí vươn lên của vùng đất một thời máu lửa.  

40 năm trước, thị xã Quảng Trị đẹp như một bức tranh bên dòng Thạch Hãn đã phải gồng mình hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn giặc Mỹ trút xuống tàn phá khốc liệt. Hàng vạn anh hùng liệt sĩ ngã xuống để giữ từng tấc đất Thành Cổ, góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris năm 1973 và đại thắng mùa Xuân 1975.

“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi/Thành Cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật/Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật/Cho hôm nay tôi đến nghẹn ngào”… 

Đặt chân đến Thành cổ Quảng Trị, tôi nhớ lại những câu thơ cảm động của tác giả Phạm Đình Lân trong bài thơ “Tấc đất Cổ Thành”.

Buổi sáng tháng Tư, khi những ngọn cỏ non trong Thành Cổ còn ướt đẫm sương mai, từng đoàn người đã lặng lẽ thắp nén tâm hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ. Trong đoàn người trở về “miền hồi tưởng” có nhiều cựu chiến binh Sư đoàn 308 năm xưa. Họ lặng im cúi đầu, nhiều người đưa tay gạt nước mắt khi thấy lại kỷ vật của một thời hào hùng như cuốn nhật ký, chiếc ba lô, bình đông nước... của đồng đội.

Tượng đài Thành Cổ (Ảnh: KT)

Ký ức về mùa Hè đỏ lửa, trong cuộc sinh tử 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị, ùa về như một khúc ca bi tráng. Đó là cuộc chiến khốc liệt giữa một bên là vũ khí tối tân của đế quốc Mỹ và một bên là lòng quả cảm, bất khuất của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. Người ta tính, lượng bom đạn đế quốc Mỹ dội xuống thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm năm 1972 tương đương với 7 quả bom nguyên tử. Thế nhưng, trong đổ nát hoang tàn tưởng chừng không còn sự sống ấy, quân và dân nơi đây vẫn bám trụ kiên cường, gan dạ chiến đấu, giữ vững trận địa.

Cả cuộc đời của mình, cựu chiến binh Võ Văn Thiệu - nguyên chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 188, Sư đoàn 308, không bao giờ quên những tháng ngày sống giữa làn mưa bom bão đạn. Với ông, những năm tháng gian khổ ác liệt là ký ức không thể phai mờ.  

Thành Cổ ban mai thật yên bình. Ai đến đây cũng không cầm được nước mắt, khi nghe lại những câu chuyện quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh: Chuyện về người thiếu phụ Nguyễn Thị Xơ, quê ở tỉnh Thái Bình, 40 năm thờ chồng là liệt sĩ Lê Văn Huỳnh trong nỗi cô đơn. Đọc lại bức thư đầy nước mắt của vợ liệt sĩ Lê Binh Chủng gửi cho chồng với những dòng chữ: “Anh thương yêu! Đã lâu rồi không thấy anh biên thư. Con đã bỏ bú, đã ăn được cơm cá nên khỏe hơn trước nhiều anh ạ. Máy bay oanh tạc thường xuyên nên lúc nào cũng phải ngủ hầm…”.  

Chị Nguyễn Thị Hạnh, quê ở thành phố Hải Phòng, lần đầu tiên đến Thành Cổ chia sẻ: “Vào đây, nhìn tất cả những ngọn cây, cành cỏ đều thấy những chiến sĩ đang ở đó cho nên tôi rất xúc động, nói không nên lời. Rất cảm ơn những chiến sĩ, liệt sĩ đã hi sinh cho đất nước có được như ngày hôm nay”.

Khác với Nghĩa trang Đường 9, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn hay bất cứ nghĩa trang nào trên đất nước Việt Nam, mọi người về Thành Cổ chỉ dâng hương tại Đài tưởng niệm và thăm viếng Nhà bảo tàng - nơi trưng bày những kỷ vật thời chiến và tại đây không hề có một nấm mồ nào. Đài tưởng niệm với cây đèn cao 8,1 m tượng trưng cho 81 ngày đêm rực lửa, như nhắc nhớ hàng ngàn chiến sĩ giải phóng quân đã hy sinh anh dũng trên mảnh đất thiêng này.

Dòng Thạch Hãn vẫn lặng lờ trôi. Đâu đó nghe ngân vang bài hát Quảng Trị yêu thương của cố nhạc sĩ Trần Hoàn: “Và không quên những ngày Thành Cổ/Thép vàng cũng chảy với lửa hồn lòng ta…” ./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên