Toàn văn báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội

VOV giới thiệu toàn văn báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11 sáng 22/3.

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị khách quý, các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa đồng bào và chiến sỹ cả nước,    

Quốc hội khóa XIII triển khai các hoạt động của mình trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; ở trong nước có những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Năm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, từng vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các ngành, các cấp và các cơ quan, tổ chức hữu quan triển khai khối lượng lớn công việc về lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát tối cao; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày báo cáo trước Quốc hội

1. Tập trung xây dựng, ban hành Hiến pháp năm 2013, hoàn thành hệ thống văn bản pháp luật cụ thể hóa Hiến pháp, tạo lập nền tảng pháp lý quan trọng đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.

Lập hiến, lập pháp luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của Quốc hội. Trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013 và căn bản hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các đạo luật theo tinh thần của Hiến pháp.

Hiến pháp năm 2013 là bản hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập quốc tế. Với Hiến pháp năm 2013, những giá trị cốt lõi, nền tảng của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 được tiếp tục kế thừa và phát triển. Nhận thức sâu sắc vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng Hiến pháp, Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội đã làm việc tận tụy, hết mình với tinh thần trách nhiệm, khoa học, lắng nghe, chắt lọc tinh hoa trí tuệ của đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài để hoàn thiện Hiến pháp. Nhờ vậy, Hiến pháp đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng ta, niềm tin, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Hiến pháp đề cao quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, phát huy vai trò chủ thể của Nhân dân trong việc thực hiện các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; đồng thời khẳng định các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định các nguyên tắc cơ bản để đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước.

Sau khi Hiến pháp được ban hành, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong toàn hệ thống chính trị đã khẩn trương triển khai nhiều biện pháp đưa Hiến pháp vào cuộc sống; tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân nội dung của Hiến pháp, bảo đảm để Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Hơn 2 năm từ khi Hiến pháp ra đời, đã có gần 70 đạo luật được Quốc hội thông qua, thuộc hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đến thời điểm hiện tại, có thể khẳng định thành tựu nổi bật của nhiệm kỳ khóa XIII là Quốc hội đã làm tròn trọng trách ban hành Hiến pháp năm 2013 và căn bản hoàn thành việc cụ thể hóa Hiến pháp trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước; bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Quy trình lập pháp có nhiều cải tiến, đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính dân chủ, công khai, minh bạch, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thông qua với nhiều nội dung đổi mới, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp. Công tác soạn thảo, thẩm tra, lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật có nhiều cải tiến, chất lượng được nâng lên. Việc thảo luận, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội đi vào nề nếp, đúng quy trình và bảo đảm chất lượng. Các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản ban hành.

Bên cạnh đó, hoạt động lập pháp còn không ít hạn chế. Việc thường xuyên phải điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa được khắc phục. Việc chuẩn bị một số dự án luật chưa bảo đảm tiến độ và chất lượng trình Quốc hội. Không ít quy định của luật còn nặng về nguyên tắc chung, thiếu tính ổn định, chưa xác định được nguồn lực để triển khai thực hiện. Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành vẫn là một khâu yếu, làm cho pháp luật chậm đi vào cuộc sống, chưa phát huy đầy đủ tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, các quan hệ kinh tế - xã hội mà pháp luật điều chỉnh đang phát triển, tính ổn định chưa cao; vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng văn bản chưa được phát huy tối đa, nhất là cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia soạn thảo trong việc chuẩn bị, trình, tiếp thu ý kiến, hoàn thiện dự thảo trình thông qua; chưa có cơ chế hiệu quả thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào quá trình chuẩn bị văn bản.

2. Xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; bảo đảm bám sát yêu cầu thực tế, phát huy hiệu quả trong cuộc sống.

Quốc hội đã dành nhiều thời gian tập trung thảo luận, lắng nghe, gạn lọc, tiếp thu ý kiến, kiến nghị, đề xuất của các ngành, các cấp và đồng bào, cử tri cả nước; kịp thời ban hành các quyết sách đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức. Quốc hội vui mừng nhận thấy, 5 năm qua, tình hình kinh tế - xã hội đất nước có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm chế, tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Việc triển khai các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng được đẩy mạnh. An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện. Chất lượng hoạt động tư pháp, bao gồm điều tra, truy tố, xét xử được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; tiềm lực quốc phòng được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Hoạt động đối ngoại song phương, đa phương được mở rộng và đạt được những kết quả nổi bật...

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày báo cáo trước Quốc hội

Trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; nhiều lần điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và hằng năm sát hợp với thực tiễn; đề ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể đối với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư  pháp nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành; điều chỉnh một số nội dung và giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh và xem xét, quyết định một số vấn đề quan trọng khác.

Từ tình hình thực tiễn, Quốc hội đã kịp thời ban hành các chính sách, pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trong nhiệm kỳ, đã có nhiều quyết sách đồng bộ để ứng phó kịp thời với tình hình; bảo đảm thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa thận trọng, linh hoạt; giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết và kém hiệu quả; có các giải pháp mạnh mẽ bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi đà tăng trưởng kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân... Nhiều quyết định đã góp phần giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của cuộc sống, như: quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện, hồ chứa; đấu tranh, phòng chống tội phạm; hỗ trợ ngân sách đóng tàu đánh bắt xa bờ, bảo vệ chủ quyền biển đảo; xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số; tiếp nhận người nghiện ma túy vào các cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội; tăng lương cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách còn khó khăn..., được đông đảo cử tri hoan nghênh.

Yếu tố trọng dân, vì dân, bám sát đời sống của dân trong việc đưa ra các quyết sách của Quốc hội nhiệm kỳ này đã được thể hiện rõ nét. Mỗi phát biểu của đại biểu Quốc hội trên diễn đàn đều xuất phát từ đời sống thường nhật, thể hiện tâm tư, nguyện vọng và ý chí của người dân, lấy mục tiêu lo việc của dân để xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước. Vì vậy, các quyết định của Quốc hội ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vì lợi ích chung của đất nước, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Quốc hội nhận rõ phần trách nhiệm trước những tồn tại, yếu kém của đất nước. Đó là: chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn; cơ cấu ngân sách chưa hợp lý, bội chi cao, nợ công tăng; tái cơ cấu kinh tế chậm; ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm đang là những vấn đề bức xúc; cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; kỷ luật, kỷ cương công vụ chưa nghiêm; tình hình tội phạm, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp; nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo tiếp tục đứng trước những thách thức mới... Nguyên nhân của những hạn chế này một phần do tác động của cuộc suy thoái kinh tế thế giới và những hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế; phần khác, do một số chỉ tiêu đặt ra chưa sát với thực tiễn; quy trình, thủ tục xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng chưa được quy định đầy đủ, thống  nhất; việc giám sát, kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện chưa nghiêm; đại biểu Quốc hội chưa được cung cấp đầy đủ thông tin, thiếu thời gian nghiên cứu và chưa có điều kiện sử dụng chuyên gia tư vấn, phản biện.

3. Tiến hành giám sát có trọng tâm, trọng điểm, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực thi pháp luật, góp phần bảo đảm để Hiến pháp, pháp luật phát huy hiệu lực trong cuộc sống.

Cùng với hoạt động lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm để pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đồng thời chỉ ra những vấn đề nổi cộm trong đời sống kinh tế-xã hội, những bất cập về chính sách, pháp luật cần sớm được khắc phục, sửa đổi, bổ sung.

Nhìn chung, phạm vi giám sát của Quốc hội rất phong phú, đa dạng, từ các vấn đề kinh tế vĩ mô đến những vấn đề dân sinh bức xúc, với nhiều hình thức cụ thể, thiết thực, sát với thực tiễn đời sống. Qua giám sát, nhiều hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành của các cấp, các ngành được phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý, tạo ra hiệu ứng tích cực trong xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Hoạt động chất vấn của Quốc hội có nhiều đổi mới, chú trọng chất lượng, đề cao tinh thần xây dựng, tính dân chủ, công khai, tranh luận, đối thoại và ý thức trách nhiệm, tự phê bình của người được chất vấn. Giám sát chuyên đề được tăng cường, tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp thiết của đời sống. Các nghị quyết, kiến nghị giám sát về cơ bản đúng, trúng những vấn đề thực tiễn đang đặt ra và được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả rõ rệt.

Trong nhiệm kỳ Quốc hội tiếp tục có nhiều cải tiến, đổi mới hoạt động giám sát. Việc “tái” giám sát được tiến hành thường xuyên, trước hết là xem xét kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn. Theo đó, kỳ họp sau phải báo cáo kết quả thực hiện những điều đã hứa, những giải pháp đã đưa ra trong lần chất vấn trước. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã tiến hành “chất vấn toàn khóa” đối với những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, về chất vấn và trả lời chất vấn từ đầu nhiệm kỳ. Như vậy, có thể nói Quốc hội đã theo dõi, giám sát “đến cùng” việc thực hiện nghị quyết Quốc hội, rút ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện chức năng quan trọng này. Hoạt động giải trình tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được quan tâm, tiến hành thường xuyên hơn, đạt kết quả thiết thực, góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các bộ, ngành trong giám sát và tổ chức thực thi pháp luật; nâng cao tính minh bạch, công khai trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong nhiệm kỳ, Quốc hội hai lần thay mặt nhân dân cả nước thực hiện quyền giám sát tối cao trong việc đánh giá tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã thúc đẩy những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn không ngừng phấn đấu, rèn luyện phẩm chất, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác, tạo chuyển biến rõ rệt trong trong một số ngành, lĩnh vực.

Mặc dù có nhiều cải tiến, đổi mới, nhưng hoạt động giám sát của Quốc hội vẫn còn không ít hạn chế, bất cập. Trong một số trường hợp, chưa có cơ chế xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan, quy trình xử lý và chế tài phù hợp; việc theo dõi, đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát chưa thực sự quyết liệt, không ít vụ việc chậm được giải quyết, gây bức xúc trong dư luận; việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cử tri chưa đạt yêu cầu; giám sát việc thi hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được thực hiện tốt và kết quả thấp; một số quy định của pháp luật về giám sát như việc cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chưa có điều kiện thực tế để thực hiện... Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là do có lúc, có việc chưa thực sự đi sâu, phân tích toàn diện nội dung giám sát; hình thức giám sát chủ yếu là nghe báo cáo của bộ, ngành, địa phương; một số quy định về hoạt động giám sát còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp, nhất là trong việc giám sát thực hiện kết luận, xử lý kiến nghị sau giám sát và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

4. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được tăng cường, đạt kết quả thiết thực, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Quốc hội và Nhân dân Việt Nam với Quốc hội và Nhân dân các nước trên thế giới.

Quốc hội Việt Nam đã tham gia tích cực, có trách nhiệm tại các diễn đàn liên nghị viện thế giới và khu vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy đối thoại và hợp tác. Là thành viên của nhiều tổ chức nghị viện, Quốc hội không chỉ đóng góp tích cực vào hoạt động của các tổ chức này mà còn chủ động đề xuất các sáng kiến, đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả. Với vai trò là Chủ tịch, Việt Nam đã tổ chức thành công Đại hội đồng liên minh nghị viện Thế giới (IPU-132) với chủ đề Các mục tiêu phát triển bền vững: biến lời nói thành hành động và thông qua Tuyên bố Hà Nội đã góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại giao nghị viện, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước chúng ta.

Nhiều hoạt động đối ngoại song phương, đa phương được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác nhiều mặt với nghị viện các nước và các tổ chức quốc tế, đưa các mối quan hệ này phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, ưu tiên phát triển quan hệ với các đối tác quan trọng, truyền thống như Lào, Cămpuchia, Trung Quốc, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nghị viện Châu Âu…; tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại có nhiều cải tiến cả về nội dung và hình thức, góp phần tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực phản động, thù địch.

Tuy vậy, hoạt động đối ngoại của Quốc hội còn một số hạn chế, bất cập. Công tác tham mưu, dự báo chiến lược còn bị động; hoạt động của tổ chức nghị sĩ hữu nghị không thường xuyên, hình thức và nội dung hoạt động chưa phong phú. Việc khai thác, chia sẻ thông tin và theo dõi kết quả hoạt động đối ngoại chưa hiệu quả... Nguyên nhân của các hạn chế này là do công tác điều hòa, phối hợp hoạt động đối ngoại chưa thường xuyên; còn thiếu đại biểu Quốc hội có kinh nghiệm hoạt động đối ngoại; công tác nghiên cứu về ngoại giao nghị viện chưa được đầu tư thỏa đáng.

5. Kế thừa, phát huy thành tựu, kinh nghiệm của các khóa trước,  Quốc hội khóa XIII không ngừng cải tiến, đổi mới để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Quốc hội đã đưa vào chương trình nghị sự việc xem xét, quyết định một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội với các giải pháp thiết thực. Sau khi Nghị quyết về vấn đề này được ban hành, các giải pháp đã được triển khai thực hiện và mang lại hiệu ứng tích cực trong hoạt động của Quốc hội. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp tài liệu kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, thông tin hỗ trợ đại biểu Quốc hội và thông tin đến nhân dân về các hoạt động của Quốc hội cũng đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào tiến trình cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội.

Tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Quốc hội được tăng cường. Việc xây dựng và đưa Kênh truyền hình Quốc hội vào hoạt động; tăng thời lượng phát thanh, truyền hình trực tiếp các phiên họp của Quốc hội tại hội trường, các phiên chất vấn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, hoạt động báo cáo giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; các chuyên mục trên các báo, đài đã tạo điều kiện đưa hoạt động của Quốc hội đến gần hơn với người dân; tạo điều kiện để người dân, cử tri giám sát hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và các cơ quan nhà nước. Từ đó, tạo sự đồng thuận, tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội. 

Việc xây dựng chương trình kỳ họp Quốc hội tiếp tục được cải tiến; các nội dung được sắp xếp hợp lý, sát với thực tế; trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động của Quốc hội được thực hiện nghiêm túc, sáng tạo. Công tác điều hành kỳ họp vừa bảo đảm khoa học, đúng nguyên tắc, vừa linh hoạt, xử lý hài hòa các mối quan hệ, phát huy được tinh thần trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; kết luận tại các phiên họp cụ thể, khách quan, có sức thuyết phục, được đại biểu Quốc hội và cử tri đồng tình.

Đại biểu Quốc hội khóa XIII có cơ cấu khá hợp lý, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức; có năng lực, trình độ, kỹ năng hoạt động ngày một nâng cao; có bản lĩnh vững vàng, tinh thần trách nhiệm; luôn tâm huyết, trăn trở trước những khó khăn, bức xúc của đời sống xã hội; những nguy cơ, thách thức đặt ra trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Các vị đại biểu Quốc hội đã phát huy trách nhiệm trước Tổ quốc, Nhân dân; thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri; nghiên cứu, tìm tòi, tự đổi mới, cải tiến cách thức thực hiện nhiệm vụ; thể hiện chính kiến rõ ràng, thẳng thắn, công tâm, nhất là khi thực hiện quyền chất vấn, thảo luận về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước,... Các vị đại biểu Quốc hội thực sự trở thành trung tâm trong các hoạt động của Quốc hội, các kỳ họp Quốc hội!

Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất là việc bảo đảm điều kiện, chất lượng các nội dung trình Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội đã phối hợp với các Phó Chủ tịch Quốc hội để chủ tọa, điều hành kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, bảo đảm hoàn thành chương trình, nội dung theo mục đích, yêu cầu đặt ra; cùng với Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp khoa học, hợp lý hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, cải tiến về tổ chức, hoạt động; dành thời gian, công sức, trí tuệ nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra, giám sát, kiến nghị và chất lượng các nội dung trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực các Ủy ban được tăng cường về số lượng, chất lượng; được xác định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn; phát huy trí tuệ, năng động, sáng tạo trong công việc; có sự phối hợp chặt chẽ để kịp thời xử lý các vấn đề liên quan đến công tác lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng. Hoạt động nhịp nhàng của các Tiểu ban đã giúp tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng, Ủy ban.

Các Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII được bảo đảm cơ cấu, số lượng hợp lý; tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Đoàn; thực hiện tốt việc phối hợp công tác với các cơ quan của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương và địa phương. Thông qua Đoàn đại biểu Quốc hội, hoạt động của đại biểu Quốc hội được phát huy, quan hệ gắn bó với cử tri được tăng cường, tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội lắng nghe, tiếp thu, phản ánh ý kiến cử tri trong quá trình tham gia xây dựng luật, giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân…; góp phần để đại biểu làm tốt vai trò người đại biểu Nhân dân.

Cùng với việc đổi mới tổ chức và hoạt động, các điều kiện bảo đảm hoạt động của Quốc hội cũng được tăng cường đáng kể. Cơ sở vật chất - kỹ thuật được bảo đảm một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Nhà Quốc hội - Hội trường Ba Đình mới được hoàn thành và đưa vào vận hành, trở thành trung tâm tổ chức các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của bộ máy giúp việc Quốc hội được quan tâm, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc phục vụ hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết sửa đổi nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tổng thư ký Quốc hội, Ban thư ký, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội. Theo đó, bộ máy giúp việc tiếp tục được tăng cường về số lượng, chất lượng cán bộ cũng như các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ hoạt động của Quốc hội.

6. Trải qua 5 năm hoạt động, với những kết quả đáng trân trọng, tự hào, Quốc hội khóa XIII rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

Một là, kế thừa, phát huy các thành tựu, bài học kinh nghiệm của 70 năm Quốc hội Việt Nam, Quốc hội khóa XIII đã nêu cao tinh thần đoàn kết, đổi mới mạnh mẽ, dân chủ thực sự, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động. Với Quốc hội, đoàn kết, đổi mới, trí tuệ và trách nhiệm là yêu cầu thường xuyên, liên tục, là động lực tạo nên sức mạnh, sự năng động, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ;

Hai là, quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân, phục vụ dân là yêu cầu hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội. Gắn bó chặt chẽ, mật thiết với cử tri và Nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân góp phần tạo ra sức mạnh cho Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội bám sát sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội, có những quyết sách đúng đắn, kịp thời, sát thực tiễn, hợp lòng dân. Dân chủ là lựa chọn tốt nhất để đưa ý chí, nguyện vọng của Nhân dân đến với Quốc hội, kết tinh vào các quyết định của Quốc hội về lập hiến, lập pháp, các vấn đề quan trọng và giám sát tối cao. Trong quá trình này, cần phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí và bảo đảm sự công khai, minh bạch;

Ba, chất lượng đại biểu Quốc hội có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội có năng lực, trình độ đã góp phần thiết thực bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội đã thể hiện trách nhiệm, bản lĩnh, trí tuệ; thảo luận, tranh luận với tinh thần xây dựng, tâm huyết; tích cực tham gia hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội chuyên trách thực sự trở thành lực lượng nòng cốt của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội;

Bốn là, đề cao cao vai trò, trách nhiệm, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội có ý nghĩa quyết định đến việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội được tiếp tục cải tiến, đổi mới, bảo đảm làm tốt vai trò là cơ quan thường trực của Quốc hội. Thường trực Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tăng cường các đại biểu Quốc hội có bản lĩnh, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thực sự trở thành nòng cốt trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban;

Năm là, tăng cường quan hệ hợp tác, phối hợp có hiệu quả với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan, tổ chức hữu quan là yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao;

 Sáu là, tăng cường hoạt động đối ngoại song phương và đa phương,  góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội và vị thế của đất nước trên trường quốc tế; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa  các quan hệ quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển đất nước; tiếp thu tinh hoa, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Quốc hội các nước trên thế giới; thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế;

 Bảy là, đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy tham mưu, giúp việc Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng tham mưu tổng hợp, phục vụ hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội;

Tám là, quán triệt, thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, luôn vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành trọng trách được Nhân dân ủy thác. Bằng hoạt động lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát tối cao, Quốc hội thể chế hóa kịp thời Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội tạo ra không khí dân chủ, cởi mở, phát huy trí tuệ của đại biểu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động Quốc hội.

Kính thưa Quốc hội,

Đến thời điểm này, mỗi chúng ta có quyền tự hào được làm người đại biểu Nhân dân, mang trong mình sức mạnh của Nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh được hun đúc, tôi luyện, kế thừa từ các thế hệ đại biểu suốt chặng đường kháng chiến, kiến quốc 70 năm của Quốc hội. Bài  học lớn nhất mà chúng ta chia sẻ cùng nhau là bài học về tư cách làm người đại diện cho dân, với tinh thần vì Nhân dân phục vụ như sinh thời Bác Hồ đã căn dặn. Năm năm qua, toàn bộ hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi đại biểu chúng ta đều hướng tới mục đích phục vụ Tổ quốc, phụng sự Nhân dân; làm Hiến pháp, làm luật vì dân, giám sát để phục vụ dân; là đại biểu sống trong dân, được Nhân dân tin yêu, đồng tình, chia sẻ, ủng hộ, đóng góp ý kiến và giám sát mọi hoạt động. Đó chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Quốc hội, là bản chất cốt lõi của chế độ dân chủ của chúng ta!

Nhân dịp này, thay mặt Quốc hội, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến toàn thể đồng bào và cử tri cả nước đã luôn tin tưởng trao cho chúng tôi trách nhiệm làm người đại biểu thực hiện quyền lực Nhân dân; cảm ơn sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan; sự chia sẻ, ủng hộ và giúp đỡ của Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và cộng đồng quốc tế.

Tôi tin tưởng rằng, với truyền thống và kinh nghiệm tích lũy qua 70 năm, với ý thức trách nhiệm trước Nhân dân và tiền đồ của đất nước, nhất định Quốc hội khóa XIV và các khóa tiếp theo sẽ tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Xin trân trọng cảm ơn./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên