Thủ tướng: Phương châm với Trung Quốc là “vừa hợp tác vừa đấu tranh“

VOV.VN - "Phương châm này không phải chỉ với Trung Quốc mà với các nước trên thế giới để có hữu nghị, tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi..."

Sau khi 4 thành viên Chính phủ kết thúc phần trả lời chất vấn trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có phát biểu và làm rõ thêm một số vấn đề đại biểu quan tâm.

Phát biểu mở đầu phiên chất vấn chiều 19/11, Thủ tướng cho biết, tại kỳ họp này nhận được 149 phiếu chất vấn của Đại biểu Quốc hội gửi đến các thành viên Chính phủ, trong đó có 17 phiếu gửi đến Thủ tướng. Thủ tướng đã giao các nội dung chất vấn tới các thành viên Chính phủ để trả lời các vị đại biểu.

Hơn 2 ngày đã có 4 Bộ trưởng trả lời trực tiếp chất vấn tại Hội trường.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng báo cáo một số vấn đề mà cử tri cả nước quan tâm về tình hình kinh tế-xã hội: tình hình xuất khẩu, nhập khẩu, giải ngân ODA, thu ngân sách Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước… 

Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những yếu kém nội tại, kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại, từ bình quân 7%/năm giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn khoảng 5,8%/năm giai đoạn 2011 - 2015.
Đảng và Quốc hội đã đề ra chủ trương giảm thu để nuôi dưỡng nguồn thu, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn và tăng chi cho bảo đảm xã hội.
Tỷ lệ ngân sách/GDP giảm tương ứng từ 24,8% xuống còn 21%. Trong khi đó nhu cầu chi tăng mạnh để bảo đảm an sinh xã hội, chi lương và tăng lương theo lộ trình, hoạt động hành chính sự nghiệp, tăng cường quốc phòng an ninh và chi trả nợ đến hạn. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách tăng từ 55% lên 64,8%, trong đó chi cho con người trong chi thường xuyên tăng từ 62,2% lên 68,2%. Chi cho an sinh xã hội tăng khoảng 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng khoảng 10%/năm của thu, 12%/năm của chi ngân sách.

Về nợ công, Thủ tướng khẳng định, mức nợ công nằm trong ngưỡng cho phép của Quốc hội. 

Thời gian tới, giải pháp được Chính phủ đưa ra là quản lý chặt chẽ nợ công đặc biệt khoản vay mới. Phấn đấu đến năm 2020 nợ công giảm còn 60,2% GDP, nợ Chính phủ 46,6%. Kiểm soát chặt nợ đầu tư xây dựng cơ bản, nợ vay của quỹ bảo hiểm xã hội, cấp bù chênh lệch lãi suất, nợ của DNNN, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.

Từ năm 2011 đến nay, nhà nước đã 3 lần điều chỉnh tăng lương, 2 lần tăng phụ cấp công vụ. Phương án tăng lương cho năm 2015 cũng được Chính phủ trình với mức điều chỉnh 8% đối với lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công và tiền lương đối với cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang có thu nhập thấp (hệ số lương từ 2,34 trở xuống). 6,3 triệu người sẽ được hưởng mức tăng lương này từ 1/1/2015.
Với quyết định tăng lương này, Thủ tướng nêu rõ, phần còn lại chi cho đầu tư phát triển giảm mạnh, từ 25% trong tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn khoảng 18% giai đoạn 2011 - 2015.
Trước thực trạng này, Thủ tướng cho biết, chủ trương tăng vay nợ cả trong và ngoài nước - chuyển mạnh sang vay trong nước - để tập trung cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Kế hoạch đề ra cho giai đoạn 2011 - 2015, kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ là 335.000 tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006 - 2010 (đã phát hành 250 nghìn tỷ đồng và năm 2015 sẽ phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng). Thủ tướng cũng nhấn mạnh việc đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu. Do đó, nợ công tăng nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và khoảng 64% GDP vào cuối năm 2015. Mức nợ công này, Thủ tướng khẳng định, vẫn trong giới hạn quy định an toàn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội.
Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với kỳ hạn dài, lãi suất thấp trong nợ công giảm dần. Cùng với thực hiện chủ trương chuyển mạnh sang vay trong nước, tỷ trọng vay trong nước tăng từ 40,3% tổng số nợ vay năm 2010 lên 54,5% năm 2014. Nợ nước ngoài chủ yếu là vay ưu đãi, thời hạn vay bình quân 20 năm với lãi suất khoảng 1,6%/năm.
Nợ trong nước chủ yếu qua phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn, lãi suất cao (do chỉ số giá năm 2011 - 2012 tăng mạnh) dẫn đến áp lực và nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng nhanh trong ngắn hạn.
Thủ tướng khẳng định: "Đã trả nợ đầy đủ, đúng hạn, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định là không quá 25%)".

Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn, chúng ta còn sử dụng một phần vay mới với kỳ hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn để đảo nợ, góp phần làm giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và giảm chi phí vay vốn. Việc đảo nợ này không làm tăng tổng số nợ công và phù hợp với Luật Quản lý nợ công cũng như thông lệ quốc tế.
Theo người đứng đầu Chính phủ, thực trạng gây lo lắng, bức xúc trong xã hội là nợ công đã tăng sát trần cho phép, áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Một số dự án đầu tư kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng vẫn còn, có vụ việc nghiêm trọng. Cơ cấu ngân sách chưa lành mạnh; tỷ trọng thu ngân sách/GDP giảm; chi thường xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn…

Thời gian tới, theo Thủ tướng, nợ công chỉ đầu tư cho xây dựng phát triển, các công trình quan trọng thiết yếu theo qui hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, chất lượng công trình. Khẩn trương cơ cấu lại nợ công, giảm áp lực các khoản vay ngắn hạn… Chính phủ sẽ quản lý chặt chẽ nợ công đặc biệt khoản vay mới. Phấn đấu đến năm 2020 nợ công giảm còn 60,2% GDP, nợ Chính phủ 46,6%. Kiểm soát chặt nợ đầu tư xây dựng cơ bản, nợ vay của quỹ bảo hiểm xã hội, cấp bù chênh lệch lãi suất, nợ của DNNN, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.

Nợ công chỉ đầu tư cho xây dựng phát triển, các công trình quan trọng thiết yếu theo qui hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, chất lượng công trình. Khẩn trương cơ cấu lại nợ công, giảm áp lực các khoản vay ngắn hạn…

Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tăng cường quản lý việc vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng để từ năm 2015 bảo đảm tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ này trong giới hạn quy định (dưới 25% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ hàng năm).

Thủ tướng đã chỉ đạo 4 nội dung cần liên kết, hợp tác vùng

Chất vấn Thủ tướng, ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé đặt câu hỏi: Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 429/2009 phê duyệt đề án quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL, tuy nhiên hiện nay từng vùng phát triển theo hướng quy mô nội bộ. Từ đó gây khó khăn cho kết nối sản xuất và tiêu thụ trong khu vực. Xin Thủ tướng cho biết giải pháp phát triển kinh tế vùng ĐBSCL trên cơ sở liên kết vùng, đầu tư trọng điểm, tạo bước đột phá mạnh mẽ hơn, phát huy đúng tiềm năng thế mạnh của vùng kinh tế trọng điểm này, góp phần đóng góp chung cho sự phát triển kinh tế đất nước. 

Trả lời câu hỏi này, Thủ tướng khẳng định, trong một không gian, khu vực, vùng mà có điều kiện kinh tế xã hội tương đồng thì yêu cầu liên kết, hợp tác để phát triển là cần thiết, gần như là khách quan, tất yếu để phát triển hiệu quả, bền vững. Chính phủ nhận thức rõ sự cần thiết. Liên kết phát huy tiềm năng lợi thế vùng, sử dụng hiệu quả, khắc phục đầu tư trùng dẫm, lãng phí; ứng phó, đối phó, khắc phục khó khăn, thách thức mà riêng một địa phương xử lý khó.

Với tinh thần đó, Thủ tướng giao Bộ KH-ĐT xây dựng qui chế liên kết các vùng kinh tế của cả nước. Qui chế dừng ở thí điểm, trong đó có vùng ĐBSCL. Tôi chỉ đạo 4 nội dung cần liên kết, hợp tác.

Một là: Các tỉnh phải liên kết, hợp tác để đầu tư hiệu quả các dự án, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên cơ sở qui hoạch chung chính phủ phê duyệt, trước hết là đầu tư (giao thông, thủy lợi, viễn thông, điện… các cơ sở sản xuất). Nhưng việc này rất khó. Ngay như tôi muốn các đồng chí hợp tác xây dựng nhà máy rác nhưng rất khó, tỉnh nào cũng muốn làm. Rác của tỉnh này không muốn cho tỉnh khác.

Hai là: ĐBSCL cần liên kết hợp tác để phát huy 3 lợi thế của vùng là lúa gạo lớn nhất cả nước, cá tra – ba sa – tôm và trái cây. Ba sản phẩm này tỉnh nào cũng có. Cái liên kết hình thành chuỗi giá trị từ giống, chế biến, tiêu thụ… để có lợi cho dân.

Ba là: Liên kết hợp tác để sử dụng bền vững và ứng phó hiệu quả, bao gồm nguồn nước sông Cửu Long, ứng phó hiệu quả với lũ. Đây không thể một tỉnh làm được và làm không hiệu quả.

Rồi liên kết hợp tác để khắc phục những khó khăn, thách thức ở vùng đặt ra như: Mặt bằng giáo dục (nhiều chỉ số thấp hơn cả nước). Nơi nào cũng muốn có trường ĐH thì không biết làm sao.

Ứng dụng KHCN vào sản xuất còn hạn chế. Hợp tác để khắc phục hạ tầng yếu kém như tôi nói phần trên.

Hợp tác để bảo đảm quốc phòng, an ninh trong vùng.

Sự cần thiết hợp tác đã rõ, nội dung cũng đã rõ, nhưng với thể chế chính trị của chúng ta hiện nay, phương thức lãnh đạo, điều hành quản lý… thì cơ chế chính sách nào để hợp tác thì cũng rất khó khăn. Chúng tôi chỉ đạo, lấy ý kiến, nhưng dự thảo nhiều lần nhưng ban hành khó khả thi. Cho nên tôi thấy thực sự lúng túng. Hợp tác là cần thiết nhưng cơ chế, tổ chức như thế nào để thực hiện được điều này thì cần phải thảo luận thêm.

Chính sách đặc thù giảm nghèo cho đồng bào dân tộc: Ngân sách ở đâu?

ĐBQH Danh Út: Đồng bào các dân tộc đánh giá cao và hoan nghênh chính phủ đã thực hiện tốt chính sách dân tộc như Hiến pháp đã quy định, tuy nhiên chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều khó khăn. Xin hỏi Thủ tướng, hiện nay trong đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 300.000 hộ không và thiếu đất sản xuất, thiếu đất ở. Nhưng đất đai của các nông lâm trường quản lý khá nhiều, có tình trạng sử dụng kém hiệu quả và chưa sử dụng. Xin đề nghị Chính phủ giảm bớt đất của các nông, lâm trường để giao lại chính quyền địa phương cấp cho đồng bào, giao khoán bảo vệ rừng. Xin ý kiến Thủ tướng về chủ trương và giải pháp?.


Đại biểu Danh Út. Ảnh: Quang Trung/VOV.VN

Thủ tướng: Cả nước ta còn 300.000 hộ đồng bào thiểu số không có đất sản xuất – là điều trăn trở, day dứt của Chính phủ. Tôi hết sức cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề này, dù đã giải quyết rất nhiều rồi.

Việc giải quyết vấn đề này cần nhiều biện pháp. Trước hết, đồng bào thường sống gắn bó với rừng. Chúng tôi trình bày trong báo cáo là yêu cầu xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn với đồng bào dân tộc thiểu số. Gắn với rừng thì phải được giao rừng. tôi đã trình bày cụ thể vấn đề này trong báo cáo.

Chính phủ cũng thảo luận dự thảo của Bộ Nông nghiệp về chính sách đặc thù này. Gắn với giao rừng, giữ rừng, giảm nghèo.

Chính phủ sẽ cố gắng thảo luận ban hành sớm. Nhưng vấn đề lớn nhất là ngân sách ở đâu. Cùng với đó là hàng loạt chính sách khác như ngành nghề, các dịch vụ xã hội. Chính phủ đã nhận thấy vấn đề này quan trọng, tập trung giải quyết nhưng cần thực hiện hiệu quả hơn. 

Nghiên cứu thành lập Bộ Kinh tế biển

Về kinh tế biển, ĐBQH Đỗ Văn Đương hỏi: Trong năm gần đây, chúng ta có những bước đầu tư đáng kể gì để phát triển kinh tế biển đảo. Để dang tay giữ biển đông ngàn dặm, cần bớt đầu tư công trong bờ, để dành nguồn lực tăng cường đầu tư cho kinh tế biển, nên thành lập Bộ Kinh tế Biển để có một bộ chuyên tâm tham mưu cho Chính phủ quản lý nhà nước về phát triển kinh tế biển.


Đại biểu Đỗ Văn Đương. Ảnh: Quang Trung/VOV.VN

Thủ tướng:  Đối với nước ta, biển quan trọng thế nào ai cũng biết. Chúng ta đã có chính sách, đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, so với yêu cầu, mong muốn thì chưa được, cần phải nỗ lực, làm tốt hơn, trong đó có đầu tư phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. chính phủ đang tiếp tục làm việc này. Căn cứ vào điều kiện quốc gia, nợ công thì đã có cả một kế hoạch cho bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Việc bớt đầu tư trên bộ dành cho biển, cái này khó rạch ròi. Cho nên phải thực hiện đồng bộ, bổ sung cho nhau.

Cần lập Bộ biển – tôi ghi nhận ý kiến này và có nhiều ý kiến như vậy. Nhưng bây giờ lập một Bộ Biển mà tất cả lĩnh vực kinh tế biển, bảo đảm an ninh quốc gia trên biển… thì một bộ khó làm được. Khai thác thủy sản, dầu khí, vận tải biển, du lịch biển… hay chủ quyền quốc gia trên biển không thể giao cho 1 bộ được.

Hiện nay, Bộ TNMT quản lý tài nguyên biển, còn từng lĩnh vực giao từng bộ. CÒn khai thác thủy sản giao cho Bộ NN-PTNT và vẫn còn Tổng cục Thủy sản, giúp Nhà nước về lĩnh vực này. Vận tải biển do Bộ GTVT… Hay khai thác dầu khí trên biển là do Bộ Công Thương. Du lịch trên biển phải giao cho Bộ Văn hóa. Các lĩnh vực trên biển khó chia cắt rạch ròi, giao cho 1 bộ.

Chúng tôi đang chỉ đạo, tổng kết đánh giá chức năng, nhiệm vụ, các lĩnh vực đều có phân công bộ chủ trì quản lý .Chúng tôi ghi nhận, nghiên cứu tiếp cho nhiệm kỳ sau.

Nợ xấu trở về mức 3% vào năm 2015

ĐBQH Thân Đức Nam: Đề nghị Thủ tướng cần làm rõ hơn vấn đề nợ xấu của ngân hàng. Nợ xấu NHTM là hiện tượng bình thường của tín dụng ngân hàng, vì vậy luật pháp quy định tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng rủi ro trước khi chia cổ tức. Tuy nhiên, nợ xấu đã vượt khả năng tự giải quyết của NHTM, đe dọa mất thanh khoản, dễ đổ vỡ hệ thống, làm tắc nghẽn sự hấp thụ vốn của nền kinh tế, làm nền kinh tế trì trệ thì nợ xấu trở thành vấn đề của kinh tế vĩ mô mà ở các nước, Chính phủ phải can thiệp xử lý, không thể kệ cho trách nhiệm của NHTM. Tôi đánh giá cao nỗ lực xử lý nợ của NHNN đã có kết quả, nhưng nếu thiếu sự can thiệp của Chính phủ, đặc biệt là giải pháp và nguồn lực vật chất thì hiệu quả xử lý nợ xấu kém đi, kéo nền kinh tế trì trệ. Đề nghị Thủ tướng cho biết Chính phủ có chủ trương gì để giải quyết vấn đề này?


Đại biểu Thân Đức Nam. Ảnh: Quang Trung/VOV.VN

Thủ tướng: Trong báo cáo của Chính phủ về nợ xấu tôi lo là dài, nhưng cố gắng trình bày cho rõ thực trạng, nguyên nhân, chủ trương, giải pháp vừa qua triển khai thế nào, kết quả ra sao, tới đây làm những gì. Tôi thấy đã rõ. Chỉ có một điều, chúng ta không có ngân sách và không sử dụng ngân sách để làm việc này. Không có thì khó khăn hơn nhưng chúng ta sẽ làm theo cách tôi đã trình bày.

Đến 2015 nợ xấu trở về mức 3%, đó là mức thông thường trong kinh tế thị trường của các TCTD. Như thế phù hợp hơn điều kiện kinh tế nước ta. Quốc hội đã bấm nút ngân sách rồi, không còn tiền cho việc đó nữa.  

3 đột phá chiến lược để trở thành nước công nghiệp hiện đại

ĐBQH Trịnh Ngọc Phương: Qua phiên trả lời chất vấn, nổi lên nhiều vấn đề còn hạn chế như hạ tầng giao thông, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực, khuyến khích sáng tạo KHCN... Thủ tướng đã đưa ra nhiều giải pháp, theo Thủ tướng giải pháp nào là quan trọng, mang tính quyết định, nhiệm vụ cần tập trung trước mắt từ nay đến hết 2015 là gì để đảm bảo 2020 Việt Nam cơ bản thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa?


Đại biểu Trịnh Ngọc Phương.  Ảnh: Quang Trung/VOV.VN

Thủ tướng: Phấn đấu nước ta thành nước công nghiệp hiện đại phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt phải thực hiện tốt 3 đột phá chiến lược: thể chế (thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, huy động cao nhất, sử dụng hiệu quả các nguồn lực) – đây là đột phá; con người – vì sao năng lực cạnh tranh của ta thấp – chính do yếu tố con người. Con người phải được đào tạo có trình độ, chất lượng đào tạo cao. Trung ương dành một phiên họp và có nghị quyết về vấn đề này.; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tần theo hướng đồng bộ, hiện đại.

Để đưa nước ta thành nước công nghiệp hiện đại không còn hướng nào khác là thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược.

Phương châm với Trung Quốc là “vừa hợp tác vừa đấu tranh“

Đại biểu Thích Thanh Quyết: Cả dân tộc, hoặc nói ra hoặc không nói ra, mọi người dân Việt Nam đều thấu hiểu, thấm thía cái giá của hòa bình, ổn định. Từ khi Trung Quốc rút Giàn khoan Hải dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, sự kiên quyết, đồng tâm của toàn Đảng, toàn dân là một tín hiệu rất tốt trong vượng khí của nước nhà. Song, cử tri muốn được nghe từ kim khẩu của Thủ tướng cho biết, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề Biển Đông và Trung Quốc bằng cách nói ngắn gọn nhất, dễ nghe, dễ hiểu nhất, súc tích, đầy đủ nhất.

Thủ tướng: Đối với Trung Quốc hay với tất cả các nước trên thế giới, chúng ta phải thực hiện đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà nước. Nếu tôi nhớ không nhầm thì Hiến pháp vừa được Quốc hội thông qua năm 2013 thì toàn bộ đường lối đối ngoại nêu rõ tại Điều 12, đó là: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Thực hiện các Hiến chương Liên Hợp quốc, thực hiện các cam kết, công ước quốc tế mà chúng ta là thành viên; hợp tác vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tích cực đóng góp cho hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ trên thế giới.

Trên cơ sở quán triệt đường lối chung đó, đối với Trung Quốc hay bất cứ nước nào cũng trên cơ sở đó.

Còn đối với ta và Trung Quốc là láng giềng. Dù mưa nắng hay bão gió gì cũng là láng giềng, mãi mãi là láng giềng. Chúng ta hết sức mong muốn, Việt Nam và Trung Quốc chân thành hợp tác để gìn giữ hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, thịnh vượng, thực hiện thực chất, hiệu quả phương châm “16 chữ” và tinh thần 4 tốt, đem lại lợi ích cho cả hai nươc. Chúng ta mong muốn hai bên chân thành  hợp tác để giải quyết bất đồng về vấn đề biên giới và trên biển theo luật pháp quốc tế.

Chúng ta cũng mong muốn hai bên làm hết sức mình vì hòa bình, thịnh vượng. Tinh thần chung là thực hiện nhất quán như vậy.

Về yêu cầu của đại biểu là Thủ tướng nói ngắn, đầy đủ, dễ nhớ, dễ hiểu về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, đây là vấn đề khó. Nhưng tôi xin trình bày khái quá 6 chữ: “Vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Tôi nghĩ phương châm này không phải chỉ với Trung Quốc mà với các nước trên thế giới để có hữu nghị, tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, cùng phát triển, cùng thịnh vượng, bảo vệ độc lập chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước.

Đại biểu Lê Nam: Ngay khi giàn khoan HD 981 chưa rút, Trung Quốc đã thực hiện xây dựng các đảo, sân bay, biến đảo Đá Chìm thành lãnh thổ trên các đảo Gạc Ma, Phú Lâm, Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa củu Việt Nam. Đó là kế sách không đánh mà thắng nhằm độc chiếm Biển Đông. Cử tri cả nước đặc biệt quan tâm đến tình hình trên, mong muốn Thủ tướng cho biết kế sách của Chính phủ sẽ như thế nào để bảo vệ trọn vẹn chủ quyền, quyền chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc?

Thủ tướng: Chúng ta đều biết, đảo Gạc Ma và một số đảo trong Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm năm 1988. Trong tình thế đó, chúng ta cùng các nước ASEAN ký với Trung Quốc tuyên bố chung về thái độ ứng xử của các bên liên quan trên biển Đông ( gọi tắt là DOC). Các bên giữ nguyên hiện trạng, không làm phức tạp thêm, mọi tranh chấp giải quyết hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, không dùng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực để giải quyết.

Còn việc Trung Quốc bồi lấp biển ở đảo chữ Thập là bồi lấp thành đảo lớn nhất, khoảng 49 ha, lớn hơn đảo Ba Bình. Thưa các vị đại biểu, lập trường của chúng ta là phản đối điều này, vì hành động này đã vi phạm điều 5 của Tuyên bố DOC.  Lập trường này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ lập trường này.

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN vừa rồi, thay mặt Chính phủ Việt Nam, tôi đã phát biểu lập trường này ở các Hội nghị (Hội nghị cấp cao Đông Á, ASEAN+3, ASEAN – Liên Hợp Quốc…).  Việc này cũng đã công khai, chúng ta bày tỏ rõ lập trường của chúng ta.

Còn chất vấn của các đại biểu khác sẽ được gửi trả lời bằng văn bản và sẽ đăng công khai trên cổng thông tin của Chính phủ. 

****************************************************************

Trước đó, theo Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc, trong số ý kiến gửi chất vấn Thủ tướng, có nổi lên nội dung lý do dừng nghị định 136 năm 2003 về chính sách đối với các đối tượng bảo trợ xã hội. 

Trước khi diễn ra các phiên chất vấn và trả lời chất vấn, sáng 17/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn.

Báo cáo nêu rõ những kết quả đã đạt được trong 7 lĩnh vực cơ bản gồm: Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Nội vụ; Thông tin và Truyền thông; Tài chính; Giáo dục và Đào tạo; Quản lý của Bộ Tư pháp; lĩnh vực Thanh tra.

Tiếp đó, các đại biểu thảo luận ở hội trường về Báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng là Bộ trưởng đầu tiên trả lời chất vấn trước Quốc hội.

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng trả lời các vấn đề về việc phát triển công nghiệp phụ trợ; công nghiệp chế tạo trong nước; giải pháp quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng hàng giả, buôn lậu, sự tham gia của Việt Nam đối với hệ thống phân phối bán lẻ trong nước.

Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình làm rõ các vấn đề về thực hiện cải cách hành chính, giảm thủ tục hành chính gắn với nâng cao chất lượng công vụ; các giải pháp thực hiện Đề án tinh giản biên chế đội ngũ cán bộ, công chức, khắc phục tình trạng cấp phó quá nhiều ở các cơ quan trung ương, nâng cao năng suất lao động, cải cách chế độ tiền lương. Kết quả đánh giá toàn diện đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, xử lý các biểu hiện tiêu cực trong công tác quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức…

Các vấn đề Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền tập trung trả lời chất vấn gồm thực trạng và giải pháp giải quyết việc doanh nghiệp vi phạm các quy định của pháp luật lao động ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; tình hình và công tác quản lý người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; thực trạng thất nghiệp hiện nay, đặc biệt là sinh viên mới ra trường; giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, tăng mức trợ cấp xã hội để đảm bảo an ninh xã hội.

Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng trả lời về tình trạng chung của hạ tầng giao thông; giải pháp đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, giải pháp sớm hoàn thành Quốc lộ 1A; giải pháp hạn chế tai nạn giao thông trong tình hình hiện nay, đặc biệt là tai nạn giao thông đường bộ; trách nhiệm của Bộ và chính quyền địa phương trong công tác bảo đảm an toàn giao thông…/.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên