Polyp đại - trực tràng nguồn gốc của ung thư
Mặc dù đa phần đều lành tính nhưng Polyp đại trực tràng (ĐTT) chính là nguồn gốc dẫn đến ung thư.
Các loại Polyp đại - trực tràng
Theo bác sĩ (BS) Trần Nguyên Hà, trưởng khoa Nội 4, Bệnh viện (BV) Ung Bướu TP HCM, polyp đại - trực tràng (ĐTT) là tổn thương nhô vào lòng ĐTT, xuất phát từ niêm mạc, có hình dạng như nấm. Đây là loại polyp rất thường gặp ở người lớn tuổi. Hiện vẫn chưa có câu trả lời chính xác về nguyên nhân gây ra polyp ĐTT.
Ảnh mang tính minh họa - Nguồn: Internet |
Polyp ĐTT có hai dạng, tăng sản và tuyến. Chiếm đa số và lành tính hoàn toàn là polyp tăng sản, loại này thường nhỏ, thường “mọc” ở phần cuối cùng của ruột như trực tràng, sát hậu môn. Nơi này có ít mạch máu nên hầu như không to lên và sẽ không bao giờ chuyển thành ung thư (UT).
Polyp tuyến gồm ba loại: tuyến ống, tuyến nhánh và tuyến ống - nhánh. Polyp tuyến ống ít có khả năng tiến triển xa hơn, tỷ lệ biến thành ác tính rất thấp; polyp tuyế n ống - nhánh có tỷ lệ tiến triển thành ác tính cao hơn, ở mức độ trung bình; polyp tuyến nhánh chính là loại có nhiều khả năng biến thành UT.
Cần biết, đa số UT ĐTT là do polyp, nhưng phần lớn các polyp không tiến triển thành UT. Khả năng tiến triển thành UT ĐTT của polyp tùy thuộc vào nhiều yếu tố.
Ngoài tùy thuộc vào dạng tăng sản hay tuyến như đã kể trên còn cần xét thêm bốn yếu tố căn bản khác. ThS-BS Trần Quốc Vĩnh, khoa Nội soi, Yersin Clinic, cho biết: Thứ nhất là kích thước polyp.
Polyp càng lớn càng nhiều khả năng hóa ác; các polyp có kích thước lớn hơn 2cm có khả năng hóa ác đến 50%. Yếu tố thứ hai là số lượng. Số lượng polyp càng nhiều thì càng dễ có khả năng hóa ác. Hình dạng của polyp cũng là yếu tố quan trọng.
Các polyp có cuống ít khả năng hóa ác hơn các polyp không cuống. Ngoài ra, không thể bỏ sót tính chất của polyp có nghịch sản (bất thường trong phát triển tế bào và cấu trúc mô) hay không.
Đây là một yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng hóa ác của polyp. Các polyp nghịch sản nhẹ sẽ ít có khả năng tiến triển thành UT, ngược lại các polyp có kèm theo nghịch sản nặng cần phải theo dõi chặt chẽ vì khả năng hóa ác rất cao.
Tầm soát sớm: Loại trừ 90% khả năng bị ung thư
UT ĐTT là loại UT rất phổ biến. Trên thế giới, UT ĐTT đứng hàng thứ hai sau UT phổi. Ở Việt Nam, UT ĐTT đứng hàng thứ 10 trong những UT thường gặp. Tần suất tử vong khi bị UT ĐTT hiện còn cao, một trong những nguyên nhân chính là người bệnh nhập viện khi đã ở giai đoạn quá trễ.
Vì vậy, việc tầm soát UT ĐTT là cực kỳ quan trọng. Hầu hết các UT ĐTT đều xuất phát từ polyp. May mắn là các polyp ĐTT phát triển rất chậm chạp (khoảng 2mm/năm), như vậy cần một thời gian khá dài (khoảng 5-10 năm) để polyp có thể tiến triển thành UT. Việc phát hiện và cắt đốt polyp có thể làm giảm 90% UT ĐTT.
Có nhiều cách để tầm soát polyp ĐTT như xét nghiệm máu trong phân; CT, MRI ảo ĐTT; nội soi viên nang, X-quang ĐTT. Tuy nhiên, những phương pháp này không có độ chính xác cao. Sau khi thực hiện, nếu có nghi ngờ, người bệnh vẫn được chỉ định nội soi ĐTT để lấy tế bào sinh thiết hoặc cắt, đốt.
Cho đến nay, nội soi ĐTT vẫn là “tiêu chuẩn vàng” để kiểm tra và xử lý polyp vì giúp thầy thuốc quan sát được toàn bộ lớp niêm mạc của ĐTT. Nhược điểm của nội soi là gây đau và khó chịu cho người bệnh ngay và cả sau khi thực hiện.
Không hiếm trường hợp bệnh nhân từ chối nội soi vì sợ đau. Tuy nhiên, hiện nhiều cơ sở y tế đã áp dụng phương pháp nội soi ĐTT mới bằng cách tạo ra giấc ngủ ngắn cho người bệnh, thay khí trời bằng khí CO2 để đưa vào ĐTT trong quá trình nội soi (khí CO2 có đặc điểm khuếch tán nhanh nên hoàn toàn không gây cảm giác đầy bụng khó chịu sau soi).
Ưu điểm của phương pháp này là hoàn toàn không gây đau, tạo cảm giác thoải mái cho người bệnh nhưng chi phí để thực hiện cao./.