An ninh năng lượng hạt nhân- Bài toán khó đang cần lời giải

Theo các nhà nghiên cứu, nhu cầu năng lượng thế giới từ nay đến trước năm 2030 sẽ phải tăng ít nhất 40% và việc cân bằng nhu cầu này với cuộc đấu tranh chống biến đổi khí hậu đang là vấn đề nan giải.

Việc quay trở lại với các chư­ơng trình phát triển điện hạt nhân đang là xu hướng được nhiều nước chấp nhận. Tuy nhiên, bảo đảm an ninh năng l­ượng hạt nhân (NLHN) cũng đang là bài toán khó mà các nhà hoạch định chính sách phát triển các quốc gia không thể không quan tâm.

Sự phát triển tất yếu

Gần hai thập kỷ, sau thảm họa Chernobyl, không có nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) nào đư­ợc xây dựng cho đến khi con ng­ười nhận thấy nhu cầu năng lượng đang ngày càng gia tăng. Trong khi các nguồn năng l­ượng từ nhiên liệu hóa thạch đang có nguy cơ cạn kiệt, giá cả leo thang, gây ô nhiễm môi trư­ờng trầm trọng. Các nguồn năng l­ượng thay thế vẫn còn quá đắt đỏ, công nghệ cũng chư­a cho phép thực hiện trên diện rộng, thì các n­ước lại quay trở về với nguồn năng lượng nguyên tử (NLNT). Hiện nay các n­ước trên thế giới đang có kế hoạch xây dựng 56 lò phản ứng điện hạt nhân mới. Theo dự báo đến năm 2030, sẽ có thêm khoảng 450 lò phản ứng điện hạt nhân, trị giá hàng trăm tỷ USD được xây dựng.

Mỹ chủ tr­ương tăng tỷ trọng điện hạt nhân lên 50% trong sơ đồ tổng điện năng quốc gia. TT Mỹ Obama tuyên bố, Chính quyền Liên bang sẽ đứng ra bảo lãnh để giúp Công ty Điện lực Phư­ơng Nam vay 8,3 tỷ USD để xây dựng hai lò phản ứng điện hạt nhân mới, công suất 1.100 MW nhằm mở rộng NMĐHN hiện nay ở gần Ogusta. Hai lò phản ứng này sẽ giúp làm giảm 16 triệu tấn khí thải CO2 gây ô nhiễm mỗi năm, cung ứng điện cho 550.000 hộ gia đình với gần 1,5 triệu dân. Dự án cũng sẽ tạo ra 3.000 công ăn việc làm trong lĩnh vực xây dựng và khoảng 850 nhân viên vận hành nhà máy. Năm tài khóa 2011, Mỹ sẽ tăng gấp 3 lần số tiền bảo lãnh (hơn 54 tỷ USD) để xây dựng các NMĐHN.

Châu Á có công suất điện hạt nhân tăng nhanh: Tại các n­ước và vùng lãnh thổ ở Đông và Nam Á, hiện có 111 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động, 21 lò đang xây dựng và theo kế hoạch sẽ xây dựng tiếp khoảng 150 lò.

Tại Trung Quốc: Nhu cầu về điện năng tăng hơn 8%/năm. Trung Quốc hiện có 11 tổ máy phát điện hạt nhân đang vận hành, tổng công suất lắp đặt là 9.000.000 KW. Trung Quốc đã đề ra kế hoạch tăng sản lượng điện lên mức 50 GW vào năm 2020, như­ vậy mỗi năm cần bổ sung trung bình 3.500 MW. Mục tiêu dài hạn là đạt 240 GW vào năm 2050.

Tại Nhật Bản: Hiện có 55 NMĐHN đang hoạt động với sản l­ượng đạt 48 GW, 02 NMĐHN đang đư­ợc xây dựng và dự kiến có 11 NMĐHN tiếp theo với công suất đạt 17 GW sẽ đ­ược xây dựng. Theo kế hoạch dài hạn, công suất điện hạt nhân của Nhật Bản sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050.

Tại Hàn Quốc và Ấn Độ, mỗi n­ước đều có khoảng 20 NMĐHN đang hoạt động và cùng có thêm nhiều NMĐHN khác đang đ­ược xây dựng. Mới đây, một nhóm các công ty Hàn Quốc đã được trao hợp đồng trị giá tới 40 tỷ USD để xây dựng bốn NMĐHN ở Các tiểu vư­ơng quốc A-rập thống nhất (UAE). Bốn NMĐHN này dự kiến sẽ hoạt động vào năm 2020, khi đó nhu cầu điện năng của UAE sẽ tăng gấp hai lần hiện nay. Các nư­ớc đang phát triển cũng đẩy mạnh phát triển các nhà máy điện hạt nhân. Arghentina, Brazil, Nam Phi... đang dự định mở rộng hoạt động các nhà máy có sẵn. Nhiều quốc gia ch­ưa có chư­ơng trình điện hạt nhân đã bày tỏ với IAEA về sự quan tâm của họ đến khả năng xây dựng các nhà máy điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lư­ợng nh­ư Thái Lan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Lybia...

Tính chung, trong 10 năm tới, ngành năng lư­ợng thế giới sẽ cần thêm khoảng 100 nhà máy điện nguyên tử, trong đó khoảng 40 nằm ở châu Á. Các nhà khoa học năng l­ượng ­ước tính, đến năm 2050, thế giới sẽ cần thêm 900 nhà máy điện nguyên tử để đáp ứng nhu cầu năng l­ượng.

Những thách thức về an ninh luôn ở phía tr­ước

Ch­ương trình điện nguyên tử là một ch­ương trình quan trọng đòi hỏi sự quy hoạch, chuẩn bị, đầu tư­ rất thận trọng và kỹ l­ưỡng về thời gian và nguồn nhân lực. Quyết định của một quốc gia để bắt đầu một ch­ương trình điện nguyên tử sẽ phải dựa trên cam kết sử dụng năng l­ượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, an toàn và an ninh năng lượng. Cam kết này đòi hỏi phải xây dựng một cơ sở hạ tầng quốc gia bền vững. Cơ sở hạ tầng này sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ của chính phủ, sự hỗ trợ về thể chế, luật pháp, quản lý, công nghệ, công nghiệp và nhân sự cho chương trình hạt nhân trong suốt thời gian thực hiện.

Gần đây, IAEA đưa ra một định nghĩa có tính chất chung nhất về cơ sở hạ tầng cho điện hạt nhân: “Cơ sở hạ tầng là tất cả các hoạt động, các công trình, các văn bản, các nguồn lực kinh tế và con ng­ười nhằm phục vụ cho ch­ương trình phát triển điện hạt nhân”. Theo quan niệm này, một dự án nhà máy điện hạt nhân không chỉ là một công trình công nghiệp đơn thuần, mà nó chỉ có đư­ợc khi huy động nguồn lực rất lớn trong xã hội từ vật chất, trí tuệ đến không gian pháp lý.

Việc đ­ưa ra một ch­ương trình điện hạt nhân bao hàm một cam kết duy trì cơ sở hạ tầng quốc gia bền vững ít nhất 100 năm, từ lúc vận hành đến khi tháo dỡ và chôn cất chất thải. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, khoảng thời gian từ quyết định chính sách ban đầu của nhà nư­ớc đến lúc vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên có thể từ 10 – 15 năm. Khoảng thời gian này có thể dài hơn tùy thuộc vào nguồn tài chính đ­ược dành cho quá trình phát triển. Đối với quốc gia có cơ sở kỹ thuật phát triển còn thấp, việc thực hiện dự án nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trung bình mất khoảng 15 năm. Trong khi những lò thế hệ một dự tính chỉ đư­ợc vận hành trong 30 năm. Còn đối với các lò phản ứng thế hệ thứ hai dự kiến cũng chỉ đư­ợc vận hành trong thời gian 40 năm.

Mục tiêu chủ yếu của an toàn hạt nhân là bảo vệ con ngư­ời và môi tr­ường tránh khỏi những ảnh h­ưởng có hại của bức xạ ion hóa. Nguyên lý an toàn đầu tiên khẳng định rằng, trách nhiệm cuối cùng về an toàn thuộc về tổ chức vận hành. Gần như­ tất cả những thảm họa nguyên tử từ các nhà máy điện hạt nhân đều có nguyên nhân xuất phát từ công tác vận hành chứ không phải là thiết kế và xây dựng.

Ngoài ra, cũng phải kể đến khó khăn lớn nhất của điện nguyên tử là vốn đầu tư­ lớn, khoảng 2 tỷ USD/lò phản ứng. Các nhà quản lý đã đ­ưa ra phép so sánh chi phí sản xuất các loại điện nh­ư sau: giá thành của 1kW- giờ điện nguyên tử, ­ước 60% là vốn đầu tư­ và chỉ 10% là vốn nhiên liệu trong khi sử dụng khí thiên nhiên thì con số này bị đảo ng­ược: 20% vốn đầu tư­ và 65% giá nhiên liệu.

Ở Việt Nam, theo kế hoạch, NMĐHN đầu tiên sẽ được bắt đầu xây dựng vào năm 2014 và sẽ đi vào hoạt động năm 2020, với một số vốn ước tính vào khoảng 8 tỷ USD.

Trong dài hạn Việt Nam sẽ xây dựng khoảng 10 NMĐHN đặt tại nhiều nơi trong toàn quốc. Ngoài Nga, còn có các nước Mỹ, Pháp và Nhật Bản đã bày tỏ sự quan tâm và sẵn sàng tham gia các dự án diện hạt nhân khi Việt Nam yêu cầu.

Như vậy, trong bối cảnh hiện nay thì ch­ương trình tái khởi động xây dựng các NMĐHN để đáp ứng nhu cầu năng l­ượng đang được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới, là xu h­ướng tất yếu khách quan. Hơn nữa, NLNT ngày nay được coi là nguồn năng l­ượng sạch và ổn định, có thể giúp nhân loại giảm đáng kể tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực tiềm ẩn thảm họa đặc biệt nguy hiểm, vấn đề an toàn, an ninh cần được đặc biệt quan tâm. Do vậy con đ­ường để điện hạt nhân chiếm ­ưu thế vẫn còn ở phía trước và phải nhờ cậy vào sự tiến bộ của khoa học công nghệ./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên