TS Trần Việt Thái: “Không nên đặt tất cả kỳ vọng vào COC”
VOV.VN - COC khó có thể bảo đảm và cũng không phải là một công cụ vạn năng để quản lý được mọi xung đột ở Biển Đông.
Đây là chia sẻ của Tiến sĩ Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao trong cuộc phỏng vấn với phóng viên VOV.
Tiến sĩ Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao, Học viện Ngoại giao.
Tiến sĩ Trần Việt Thái nhận định: “Hiện nay, Biển Đông là 1 trong những vấn đề lớn, quan trọng, có tác động tới an ninh, ổn định cũng như sự phát triển lâu dài của cả khu vực cũng như quan hệ của ASEAN với các nước.
Do vậy, việc ASEAN và Trung Quốc chính thức thông qua dự thảo khung về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ngày 6/8 là bước tiến trong bối cảnh tình hình có những diễn biến phức tạp.
Điều này cũng sẽ góp phần vào hòa bình và ổn định tại khu vực. Tuy nhiên, đây mới chỉ là cái khung của COC, chưa phải bản quy tắc ứng xử chính thức có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Thêm nữa, để đạt được văn bản này cần 1 thời gian quá lâu [sau gần 4 năm đàm phán], cần quá nhiều nỗ lực.
Tôi cho rằng việc thông qua này, tuy là một bước tiến, nhưng không phải là đột phá. Chúng ta vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nữa từ cả hai phía, đặc biệt từ phía Trung Quốc”.
COC không phải công cụ vạn năng
PV: Thực tế là COC sẽ không thể xử lý các tuyên bố chủ quyền của các bên tại Biển Đông cũng như các tranh chấp về quyền tài phán. Trong trường hợp này, COC sẽ đóng vai trò như thế nào, thưa ông?
TS Trần Việt Thái: Thực ra bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) dù nó có được xây dựng thành công đi chăng nữa, vẫn chỉ là một bộ quy tắc ứng xử. Nếu nói về tính pháp lý, chắc chắn nó không thể bằng được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Hoặc nếu so với những tuyên bố khác, hoặc những văn kiện khác thì mức độ giá trị của nó cũng bị giới hạn.
Do vậy, nếu nói tới vai trò của COC, tôi cho rằng nó có tính định hướng quan trọng. Nó sẽ góp phần vào quản lý các xung đột. Nhưng một mình tuyên bố COC khó có thể bảo đảm, và nó không phải là một công cụ vạn năng để quản lý được mọi xung đột.
Vì thế, COC (trước hết là bộ khung của nó) không phải là công cụ để xử lý các tranh chấp, càng không phải là công cụ để giải quyết tranh chấp liên quan đến tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ.
Vậy COC có giá trị ở chỗ nào? Tôi cho rằng nó là văn kiện dùng để đóng góp vào duy trì hòa bình ổn định, và đóng góp vào định hướng trong quản lý thái độ và cách hành xử của các nước trên Biển Đông.
Nhưng cũng không nên đặt tất cả kỳ vọng vào COC. Thực tiễn tình hình thời gian qua cho thấy là ASEAN và Trung Quốc cần nhiều nỗ lực hơn nữa mới có thể quản lý được tình hình. Ngay cả khi COC ra đời, chúng ta vẫn cần phải kết hợp nhiều công cụ khác nhau để đảm bảo đạt được các mục tiêu mà chúng ta mong muốn, là hòa bình, ổn định ở trên biển.
PV: Vấn đề hiện tại là ASEAN và Trung Quốc sẽ phải khởi động đàm phán thực chất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) có hiệu lực và ràng buộc. Theo ông, một văn bản như vậy còn phụ thuộc vào những yếu tố nào?
TS Trần Việt Thái: Để nói là hướng tới một COC có tính hiệu lực và ràng buộc cao hơn, cái đầu tiên, trước hết cần đến là thiện chí và thái độ của hai bên, đặc biệt là Trung Quốc.
Hiện nay, Trung Quốc mới chấp nhận đàm phán về khuôn khổ. ASEAN cũng mới bắt đầu tính tới khả năng giao cho các quan chức cao cấp tiếp tục đàm phán để đi tới một bộ quy tắc ứng xử đầy đủ.
Thứ nhất là ý chí chính trị, đặc biệt là của phía Trung Quốc, có muốn đi tiếp hay không, đi theo cách như thế nào. Thứ hai là để COC có hiệu lực thì phạm vi hiệu lực của nó phải bao trùm toàn bộ Biển Đông, chứ không thể chỉ có một bộ phận riêng lẻ nào trong đó. Để COC có tính ràng buộc, có những yếu tố cần tính toán.
Đầu tiên, văn kiện đó có được Quốc hội thông qua hay không? Bởi bên hành pháp thông qua là một chuyện, còn bên Quốc hội thông qua lại là một việc hoàn toàn khác.
Điểm thứ hai, nếu nó có tính ràng buộc pháp lý, liệu khi có phát sinh tranh chấp, nó có giải quyết được thông qua các cơ chế pháp lý hay không? Ví dụ như các tòa án, hay các bên trung gian hòa giải thứ ba. Hay chỉ là thông qua đàm phán, thỏa thuận song phương. Câu chuyện này cũng cần phải được tính toán tiếp.
Philippines kiện Trung Quốc- cần sớm có COC trên Biển Đông
ASEAN cần thống nhất nội bộ
PV: Chặng đường phía trước để có một COC thực chất đòi hỏi sự thống nhất và quyết tâm của nội bộ ASEAN. Ông đánh giá yếu tố này như thế nào?
TS Trần Việt Thái: Thực ra về phía ASEAN, qua trao đổi và tham vấn chúng ta thấy các nước đều có nguyện vọng và có lợi ích to lớn trong việc duy trì hòa bình ổn định. Bởi đây là điều kiện tiên quyết để tập trung vào phát triển.
Tuy nhiên để có được hòa bình ổn định, và để có được thái độ nhất quán trong việc ứng xử liên quan đến vấn đề Biển Đông, cũng như trong xử lý quan hệ ASEAN – Trung Quốc nói chung và quan hệ của từng nước với Trung Quốc nói riêng, tôi thấy rằng có mấy vấn đề.
Thứ nhất là cần thống nhất được nhận thức về những thách thức hiện này tại Biển Đông cũng như trong khu vực. Thứ hai là cần có sự phối hợp chính sách, phối hợp về hành động giữa các nước thành viên. Phải đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của từng cá nhân [mỗi nước-PV]. Thứ ba là trong xử lý quan hệ song phương cần phải đảm bảo mức độ độc lập nhất định, tránh bị lôi kéo.
Tiếp nữa phải xây dựng được sự đồng thuận nội bộ, khi tham vấn, nhất là vai trò của chủ tịch và nước điều phối trong quan hệ ASEAN với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng những việc này có thể làm được nhưng cần thời gian và nỗ lực rất lớn của các thành viên ASEAN.
Hy vọng có thể góp phần vào quản lý được các xung đột, nếu không giải quyết được thì cũng giữ cho xung đột không bung ra, ảnh hưởng tới hòa bình khu vực. Nhưng (công việc này) phải đủ sớm. Nếu để tình hình thay đổi rồi sẽ rất khó.
Khi Trung Quốc thiết lập được sự hiện diện của họ [trên Biển Đông] và đã tạo dựng được “thế đã rồi”, buộc các nước trong khu vực chập nhận thì lúc đó sẽ rất khó./.
AMM 50 nóng với vấn đề Biển Đông và tình hình trên bán đảoTriều Tiên