"Kỹ thuật đỉnh cao" cứu sống nhiều trường hợp song thai có hội chứng truyền máu
VOV.VN - PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho rằng, kỹ thuật laser quang đông mở ra cơ hội cứu sống những trường hợp song thai có hội chứng truyền máu.
Sáng 25/9, chia sẻ tại Hội nghị ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử và kỹ thuật laser quang đông trong điều trị hội chứng truyền máu song thai (Twin to Twin Transfusion Syndrome, viết tắt TTTS) và hội chứng dải xơ buồng ối, PGS.TS Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết, hội chứng truyền máu song thai (gồm song thai 1 bánh rau và song thai buồng ối) chiếm tỷ lệ khoảng 10-15. Nguyên nhân do sự mất cân bằng về lưu lượng máu giữa hai thai, dẫn đến quá trình truyền máu.
Tiên lượng chung của hội chứng truyền máu song thai là rất xấu. Các chuyên gia cho rằng, nếu không được điều trị, tỷ lệ tử vong thai nhi lên tới 90%, số còn lại sống sót bị tổn thương hệ thần kinh rất cao.
PGS.TS Nguyễn Duy Ánh cho biết, đã có nhiều can thiệp trong việc điều trị những trường hợp này. Tuy nhiên, ban đầu những can thiệp này rất đơn giản, có thể dùng phương pháp đục 2 màng ối cho thông giữa hai thai. Đến nay, kỹ thuật ngày càng tiến bộ và việc điều trị bằng laser quang đông là phương pháp hữu hiệu, đã được các Hiệp hội đánh giá và có nhiều báo cáo trên thế giới cho thấy thực sự hiệu quả.
Theo PGS Nguyễn Duy Ánh, phương pháp kỹ thuật laser quang đông mở ra rất nhiều cơ hội cứu sống những trường hợp song thai có hội chứng truyền máu.
Từ tháng 10/2019, kỹ thuật laser quang đông điều trị hội chứng truyền máu song thai đã được triển khai tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Đây cũng là 1 trong những bệnh viện đầu tiên thực hiện kỹ thuật này và đã đem lại hiệu quả đáng kể.
Coi thai nhi là bệnh nhân
Đến nay, Bệnh viện đã thực hiện phẫu thuật gần 40 ca can thiệp laser quang đông trong y học bào thai, trong đó đã thực hiện thành công 17/20 trường hợp (chiếm 85%). Cụ thể, đã giữ được 1 trường hợp có tuổi thai 28 tuần; 2 trường hợp tuổi thai từ 28-32 tuần; từ 32-36 tuần là 9 trường hợp, trên 37 tuần là 5 trường hợp.
Bên cạnh đó, không có trường hợp nào gây biến chứng cho mẹ sau phẫu thuật. Không có nhiễm trùng ối sau phẫu thuật, không có trường hợp chảy máu buồng ối sau phẫu thuật và không xảy ra rau bong non sau phẫu thuật.
“Để có thành công này là sự cố gắng của cả 1 ê kíp từ việc chuẩn bị một phòng mổ hiện đại, đạt tiêu chuẩn của Châu Âu, đặc biệt là tiêu chuẩn Châu Âu cho mổ bào thai. Bên cạnh đó, các ê kíp thực hiện kỹ thuật này cần phải đảm bảo thành thạo từ gây mê, giảm đau và an thần cho sản phụ đến thực hiện kỹ thuật và đặc biệt sau đó là những bác sĩ sơ sinh đón nhận, chăm sóc những em bé khi can thiệp những kỹ thuật này. Đồng thời là những vấn đề chăm sóc sau mổ, đã đem lại thành công, tỷ lệ rất đáng khích lệ, ngang tỷ lệ hàng đầu thế giới. Chúng tôi đã cứu được rất nhiều em bé bằng kỹ thuật này”- PGS Nguyễn Duy Ánh cho biết.
PGS Nguyễn Duy Ánh khẳng định, khi đã xảy ra hội chứng này, sẽ dẫn đến biểu hiện từ nhẹ đến nặng, vì vậy bắt buộc phải có sự can thiệp của y học.
“Nếu không can thiệp đồng nghĩa hoặc hỏng 1 trong 2 thai nhi hoặc sẽ hỏng cả 2 thai. Hỏng mức nặng nhất là sẽ dẫn đến thai lưu ở trong bụng hoặc nhẹ hơn là thai sẽ bị biến loạn về não và tim”- ông Nguyễn Duy Anh cho biết.
PGS Ánh cũng cho rằng, trong y học bào thai mở ra một trang mới đó là chúng ta không ngồi thụ động chờ đợi những diễn biến bào thai ở trong tử cung như trước đây mà đã chủ động coi thai nhi là bệnh nhân (trước đây chỉ coi sản phụ là bệnh nhân) và phải chữa bệnh cho những bệnh nhân đó khi có bệnh./.
Laser quang đông là một kỹ thuật của phẫu thuật nội soi can thiệp vào trong buồng ối dưới sự kiểm soát của siêu âm. Hầu hết các ca phẫu thuật được thực hiện dưới gây tê tại chỗ (xylocaine 2%). Khi đã xác định được đường vào, phẫu thuật viên sẽ thực hiện rạch da (3 mm) để đưa trocar (ống kim loại nhỏ) vào buồng ối của thai nhận, hút 20 ml nước ối để gửi cho các nghiên cứu về di truyền học và vi trùng học. Ngay sau đó, phẫu thuật viên luồn ống kính nội soi có gắn sợi laser vào trong buồng ối. Các mạch máu, được nhìn thấy trên bề mặt của nhau thai sẽ được phân tích, và tất cả các mạch nối sẽ được đốt (phong bế) bằng năng lượng laser. Phẫu thuật này thường kéo dài trung bình 15-20 phút.