Vĩnh Trà: Một tấm lòng thành, nhiều tư liệu quý với Đài TNVN
VOV.VN - Cuốn Bác Hồ với Đài Tiếng nói Việt Nam của nhà báo Vĩnh Trà chứa nhiều thông tin độc đáo, là tấm lòng thành kính của cán bộ Đài kính dâng Bác Hồ.
Cuốn sách Bác Hồ với Đài Tiếng nói Việt Nam của Vĩnh Trà (NXB Chính trị quốc gia, 2015) chứa nhiều thông tin độc đáo và gợi mở, là tấm lòng thành kính của cán bộ Đài kính dâng Bác Hồ, người sáng lập Đài Phát thanh quốc gia, nhân kỷ niệm 70 năm ngày Đài phát sóng lần đầu: 7/9/1945 – 7/9/2015.
Một cuốn sách quý
Ký ức, ghi chép và hiện vật của nhiều người, đặc biệt các vị đặt nền móng cho Đài những ngày Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, đất nước đối mặt vô vàn gian nguy, rồi tiếp đó kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Rất hiếm tổ chức, cơ quan được Bác Hồ lúc sinh thời đến thăm, làm việc và chỉ bảo đến 6 lần như Đài TNVN. Đài đã truyền đi giọng nói Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình chiều 2/9/1945 đến với đồng bào cả nước và thế giới vào 11 giờ 30 ngày 7/9/1945 qua làn sóng phát thanh.
Nhà báo Vĩnh Trà, tác giả cuốn sách "Bác Hồ với Đài Tiếng nói Việt Nam" |
Sáu lần Bác Hồ đến Đài TNVN trùng hợp với sáu sự kiện lịch sử trọng đại. Lần đầu Bác đến Phòng bá âm của Đài đặt tại số 4 phố Phạm Ngũ Lão, Hà Nội nói trực tiếp trước máy, giải thích với nhân dân về việc ký Hiệp định tạm thời (còn gọi Tạm ước) ngày 6/3/1946.
Ngày nay, hầu như mọi người đều biết, việc ký với Pháp bản Tạm ước là bước đi tuyệt vời, lùi để tiến, hòa hoãn nhằm tranh thủ thời gian, tránh sự đổ vỡ dẫn đến hậu quả khôn lường, trong bối cảnh trên miền Bắc nước ta đang có mặt 18 vạn quân Tưởng Giới Thạch được sự ủy nhiệm của các nước Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật đầu hàng vô điều kiện; 30.000 binh sĩ Nhật được vũ trang hiện đại tiếng là tù binh nhưng vẫn đồn trú tập trung tại một số nơi trong khi việc tước vũ khí diễn ra hết sức lề mề.
Vẫn theo uỷ nhiệm của Đồng Minh, tháng 3/1946, đạo quân viễn chinh Pháp do tướng Lederc làm Tổng tư lệnh chuẩn bị đổ bộ lên miền Bắc thay quân Tưởng rút về nước, thực chất là nhằm giúp Pháp áp đặt lại ách đô hộ của họ lên các nước Đông Dương. Đầu tháng 3/1946, các chiến hạm Pháp đã rập rình ngoài khơi cảng Hải Phòng.
Có một điều rất ít người tường: phải tranh thủ lúc triều cường thì các chiến hạm với mớm nước sâu mới có thể cập bờ, cuộc đổ bộ của quân Pháp nhất thiết phải tiến hành nội trong ba ngày, từ 5 đến 7/3 năm ấy bằng bất cứ giá nào, cho dù hai bên Việt Nam và Pháp đạt được thỏa thuận hay không.
Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi ba đạo quân nước ngoài vốn chẳng ưa gì nhau cùng có mặt trên đất nước ta mà không có sự thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam, trong khi nhân dân ta từ Bắc chí Nam đang sùng sục căm thù, dứt khoát không chịu làm nô lệ một lần nữa.
Giáo sư Pháp Paul Mus, cựu thành viên Trường Viễn đông Bác Cổ, Hà Nội, bị sung quân làm trợ lý cho đô đốc D’Argenlieu, Thượng sứ Pháp tại Đông Dương, về sau phân tích tại công trình khoa học nổi tiếng của ông, Vietnam, sociologie d’une guerre (Ed. Le Seuil, 1952): Trong trường hợp hai bên Việt Nam và Pháp không thỏa thuận đúng hạn, tướng Pháp Leclerc và tướng Tàu Lư Hán sẽ ký với nhau một hiệp định tại chỗ (đồng ý cho quân Pháp từ biển đổ bộ lên Hải Phòng và từ Lào theo đường 9 về Đông Hà và Huế). “Hai gọng kìm Pháp và Tàu cùng xiết lại, Việt Minh sẽ bẹp nát hoàn toàn” - ông viết.
Để tránh các phần tử xấu tuyên truyền phá hoại, cuộc đàm phán giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và phía Pháp do Jean Sainteny làm đại diện tiến hành kín đáo, khẩn trương và đầy khó khăn. Ngày 5/3/1945, Hội nghị Trung ương Đảng ta mở rộng họp tại làng Canh, Hà Đông, quyết định chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp. Bản Tạm ước được ký chính thức vào lúc 16 giờ 30 ngày hôm sau, 6/3 tại Hà Nội.
Tình hình hết sức phức tạp. Ngay trong chiều và đêm hôm ấy các đảng phái phản động đặt điều kích động, cố làm phân tâm người dân, gây rối ren tại thủ đô. Chúng lu loa xuyên tạc, cho là Việt Minh thỏa hiệp với Pháp, bỏ rơi Nam Bộ, ngang ngược xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự mình biến thành “con tin của Pháp”, “đồng lõa với Leclerc”, thậm chí “bán nước”.
Thành phố Hà Nội tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Quảng trường Nhà hát lớn sáng sớm hôm sau, 7/3/1946, nhằm giải thích với nhân dân về sự cần thiết ký Tạm ước, kêu gọi nhân dân bình tĩnh. Nhà báo Pháp Jean Lacouture, phóng viên nước ngoài duy nhất có mặt tại cuộc mít tinh sáng hôm ấy, thuật lại (tóm lược): Quảng trường đông kín một biển người mênh mông, nôn nóng, trong đó chảy ngầm những dòng nước ngược chiều kích động bạo lực, manh động. Từ ban công Nhà hát lớn, một số thành viên Chính phủ lần lượt nói chuyện với đồng bào nhưng chưa đủ thuyết phục.
Giữa lúc ấy xuất hiện một vị cao niên người mảnh dẻ, mái tóc ngả bạc phất phơ trong gió, lưng hơi còng dưới chiếc áo khoác ngoài cũ kỹ: nhà lãnh tụ lão thành Hồ Chí Minh. Cụ đưa hai tay về phía quần chúng như thể muốn giảm bớt ngọn trào phấn chấn nổi lên hoan hô Người, và bắt đầu giải thích tại sao cần có Hiệp định sơ bộ 6/3. Cuối cùng cụ nói: “Tôi, Hồ Chí Minh, tôi suốt đời đấu tranh vì tự do của đồng bào, vì độc lập của Tổ quốc, đồng bào biết tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước. Đồng bào hãy tin tôi, Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”.
Một người bạn và tôi - lời Jean Lacouture - lúc ấy đứng quá xa khán đài để có thể nhìn thấy nước mắt Cụ Hồ, nhưng nghe rõ nước mắt cụ chảy tràn trề qua giọng nói. Những người dự mít tinh như xúc động tận tâm can. “Hiệp định sơ bộ đã được chuẩn y từ cơ sở”- nhà báo nhận xét.
Đúng. Bác Hồ đã thuyết phục nhân dân thủ đô. Nhưng còn đồng bào cả nước, đặc biệt đồng bào Nam Bộ thường xuyên hiện hữu trong trái tim Người? Chính vì vậy, trưa ngày 9/3/1946, Bác đến Đài TNVN nói chuyện qua làn sóng phát thanh.
Nhà báo Vĩnh Trà viết: “...Ông Lê Quang Lân, công nhân kỹ thuật Phòng bá âm Đài nhớ lại: Lúc bấy giờ ông Nguyễn Văn Nhất, biên tập viên kiêm phát thanh viên đang chuẩn bị đọc thẳng bản tin trưa thì được tin Bác Hồ đến. Bác đến bất ngờ, chỉ có cận vệ đi theo. Ông Nhất không biết nội dung Bác sắp nói nên giới thiệu gọn: “Mời đồng bào lắng nghe Hồ Chủ tịch nói chuyện” rồi lặng lẽ rời khỏi ghế. Bác Hồ nhẹ nhàng ngồi trước micro. Giọng bác ấm và xúc động: “Thưa đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ, thưa đồng bào cả nước”. Bác giải thích ngắn gọn vì sao có Hiệp định sơ bộ 6/3. Bác khuyên đồng bào bình tĩnh, không nghe địch xuyên tạc, phải đoàn kết rộng rãi, tin tưởng Chính phủ sẽ chèo lái con thuyền Việt Nam qua cơn sóng gió. Hãy muôn người như một, đồng lòng đồng sức xiết chặt hàng ngũ xung quanh Chính phủ đưa cách mạng đến thắng lợi. Nói đến đây, Bác ngừng lời, nhìn mọi người trong Phòng bá âm rồi xúc động nói: “Đồng bào hãy tin, Hồ Chí Minh không phải là người bán nước!”.
Có thể nói theo cách của Jean Lacouture: “Hồ Chủ tịch rời Đài TNVN, bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được cả nước thông qua “từ cơ sở!”.
Người “chép sử của Đài”
Nhà báo, nhà văn Vĩnh Trà 37 năm làm việc ở Đài TNVN, đã xuất bản hơn chục tác phẩm: phóng sự, bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết… Cuốn Bác Hồ với Đài Tiếng nói Việt Nam dày vỏn vẹn một trăm trang, là cuốn ông đầu tư nhiều tâm huyết nhất. Mở đầu là chuyến đi sang thành phố Quảng Châu, Trung Quốc thăm nơi Bác Hồ mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng và làm báo Thanh niên (1925). Rời căn phòng lưu niệm Bác, nhìn trời thu Quảng Châu ngập tràn sắc hoa phượng vàng quyện trong nắng nhẹ, tác giả cảm nhận: Mùa thu. Mùa thay lá. Mùa của những đổi thay. Mùa thu cách mạng!
Cuốn sách kết thúc với hồi ức của một cán bộ kỹ thuật đã qua mốc xưa nay hiếm: Cụ Lê Võ, vốn là học sinh Trường Collège Cần Thơ tham gia kháng chiến, làm việc tại Đài Phát thanh Nam Bộ giữa Đồng Tháp Mười. Tập kết ra Bắc, ông làm công nhân bá âm Đài TNVN, nhiều lần được gặp Bác Hồ, ghi âm các bài nói của Người. Ấn tượng sâu đậm nhất trong đời ông là lần được cùng Giám đốc Đài Trần Lâm, nghệ sĩ Nhân dân Trần Thị Tuyết lên Phủ Chủ tịch ghi âm lời Bác chúc Tết Mậu Thân 1968.
Cụ Lê Võ nhớ lại: “Bác hồng hào, mạnh khoẻ. Tôi nhìn Bác thật lâu như ngắm thay cho bà con miệt vườn, sông nước Nam Bộ chưa một lần may mắn được gặp Bác. Bác đọc thư xong, nhẹ nhàng hỏi: Các cô, các chú có ý kiến gì đóng góp cho bài của Bác?
...Trước khi chúng tôi ra về, Bác tặng anh Trần Lâm lẵng hoa tươi và tấm thiệp hồng Chúc mừng năm mới đến cán bộ, nhân viên Đài, cùng gói kẹo chia cho các cô, các cháu ở nhà. Cánh đàn ông chúng tôi có mặt hôm ấy được Bác cho mỗi người một điếu thuốc lá thơm.
Đúng giao thừa, sau lời thơ của Bác: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà... Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!” hùng tráng truyền qua làn sóng phát thanh, quân dân miền Nam nhất tề nổ súng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công... Tôi tâm đắc, tôi nhớ mãi lời bình của biên tập viên sau bản tin thời sự chiều mùng một Tết Mậu Thân 1968 ấy: Lời Bác gọi ấy là lời sông núi. Lời Bác gọi ấy là mùa xuân đến...”.
Cụ già xưa nay hiếm nay đã qua đời nhắc lại hồi ức cho tác giả ghi giữa thành phố Cần Thơ đang đổi mới từng ngày, từ ngôi nhà nhìn ra dòng sông Hậu miệt mài chở phù sa cùng hoa lục bình tím lãng đãng trôi về biển. Kể xong, bác thợ già đứng lên thành kính chắp tay hồi lâu trước chân dung Bác..../.