Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử VOV, GS Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao cho biết, năm 1950, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với loạt nước XHCN và dân chủ nhân dân (DCND) ở Châu Âu, Châu Á. Và năm 2025, Việt Nam kỷ niệm 75 năm sự kiện nổi bật này.

Theo GS Vũ Dương Huân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945 và đã có rất nhiều hoạt động ngoại giao nhưng chưa có kết quả cuối cùng, chưa được công nhận.

“Đến thời điểm đó, đất nước vẫn là đơn độc. Do vậy, năm 1950 là thời điểm cực kỳ quan trọng để làm sao đất nước mở cửa ra với thế giới”, GS Vũ Dương Huân nhận định

PV: Năm 2025, Việt Nam kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng loạt nước trên thế giới. Ông có thể phác thảo vài nét về bối cảnh đất nước thời điểm đó?

GS Vũ Dương Huân: Năm 1950, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước XHCN và DCND (dân chủ nhân dân) ở Châu Âu, Châu Á. Cho nên, năm nay 2025, chúng ta kỷ niệm 75 năm với sự kiện nổi bật đó.

Nhìn lại bối cảnh Việt Nam lúc đó chính là cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu từ cuối năm 1946, khi Bác Hồ phát động kháng chiến toàn quốc và đến giai đoạn đó thì đã có tiến triển. Giai đoạn đầu năm 1947, Pháp mở một cuộc tấn công lớn là Chiến dịch Thu Đông 1947 để tấn công vùng giải phóng Việt Bắc. Mục tiêu của chúng nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của quân ta; tiêu diệt đội ngũ lãnh đạo đầu não của Đảng và Nhà nước ta đang ở trên đó; ngăn chiến khu Việt Bắc với Trung Quốc.

Phản công lại cuộc tiến công của Pháp, chúng ta đã giành thắng lợi trong Chiến dịch Thu Đông năm 1947. Với chiến thắng này, chúng ta chuyển từ giai đoạn cầm cự sang phản công. Đây là dấu mốc cực kỳ quan trọng.

Sự kiện thứ hai liên quan đến ngoại giao. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945, nhưng đến giai đoạn đó chưa được nước nào công nhận. Nghĩa là chúng ta vẫn đơn độc, vẫn trong vòng vây của kẻ thù, chưa được thế giới công nhận.

Tất nhiên là hoạt động ngoại giao của chúng ta đã có những thành tựu nhất định nhưng chưa được nước nào công nhận. Ví dụ, cuối năm 1946, Chính phủ dân tộc tiến bộ do Pridi Banonyong lên cầm quyền ở Bang Kok, chúng ta đã thiết lập quan hệ với Thái Lan, song chỉ là sự công nhận thực tế. Thái Lan cho chúng ta mở Phái viên quán, hưởng quy chế ngoại giao, nhưng hai bên chưa công nhận pháp lý lẫn nhau. Đó là cơ quan đại diện đầu tiên của ta ở nước ngoài, thậm chí có lúc có đến đến 40 cán bộ ngoại giao. Rất tiếc là chúng ta đã rút cơ quan đại điện này vào năm 1951.

Mặc dù cơ quan đại diện tồn tại ngắn nhưng đây vẫn là một sự kiện lớn khi chúng ta đã mở cửa ra Đông Nam Á, dù là mở cửa tạm thời.

Cùng với đó, chúng ta có những hoạt động ngoại giao khác. Ví dụ, năm 1948, Việt Nam cử phái viên đi chúc ngày độc lập của Ấn Độ, Miến Điện (Myanmar), trên cơ sở đó chúng ta cũng mở được cơ quan đại diện lâm thời ở Ấn Độ và Miến Điện, tuy nhiên thời gian cũng rất ngắn.

Ngoài hoạt động ngoại giao, chúng ta có các hoạt động tiếp xúc với Liên Xô qua hai kênh là tháng 7/1947, có Hội nghị Liên Á, Việt Nam cử đại diện đến dự hội nghị, gặp đại diện các nhà báo của Liên Xô ở đó.

Tiếp đó, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, phái viên của Chính phủ, lúc ấy là Thứ trưởng Phủ Thủ tướng, tháng 9/1947 đã qua Thụy Sĩ và tiếp xúc với Công sứ Liên Xô tại Thụy Sĩ và họ cũng đặt những vấn đề giống như như Hội nghị Liên Á.

Ngoài ra, ta còn cử một số phái đoàn, như dự Hội nghị thanh niên dân chủ thế giới, Công đoàn thế giới họp ở Tiệp Khắc…. Trước đó, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, chúng ta đã gửi nhiều công hàm cho các nước lớn như Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp đề nghị công nhận Việt Nam. Thế nhưng tất cả những hoạt động ngoại giao của ta lúc đó không có kết quả, thời điểm đó chưa được nước nào không nhận.

Một sự kiện khác liên quan đến Trung Quốc là đầu năm 1946, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đặc phái viên sang Việt Bắc gặp lãnh đạo Việt Nam thông báo về tình hình nội chiến của Trung Quốc và đề nghị giúp đỡ, phối hợp chống quân "Tưởng" ở khu Điền Quế và Việt Quế (Quảng Tây, Quảng Đông). Từ tháng 6-10/1948, chúng đã cử một số trung đoàn, do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy sang phối hợp chống quân của "Tưởng Giới Thạch". Liên quân Việt-Trung đã tiến hành chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, góp phần giải phóng khu Ung-Long-Khâm, giáp với biên giới nước ta. Sau chiến dịch chúng ta đã rút quân về nước, chuyển giao nhiều chiến lợi phẩm, nhất là vũ khí cho Giải phóng quân Trung Quốc.

Những hoạt động ngoại giao này rất tích cực. Đến sự kiện ngày 1/10/1949 - nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập, nghĩa là Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành Đảng nắm chính quyền. Đó là điều kiện cực kì thuận lợi để ta tiến hành những hoạt động ngoại giao, sau đó Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

PV: Năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô là hai quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì sao chúng ta thiết lập quan hệ ngoại giao với 2 nước này đầu tiên?

GS Vũ Dương Huân: Ngày 14/1/1950, Chính phủ ta ra tuyên bố khẳng định, nước nào công nhận nước Việt Nam, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn biện lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì ta có thể thiết lập quan hệ ngoại giao.

Trên cơ sở tuyên bố, ngày 15/1/1950, Chính phủ ta tuyên bố công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và ngày 18/1/1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

Như vậy, Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại sao lại như vậy? Vì Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương có mối liên hệ rất chặt chẽ và đã từng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, Bác Hồ cũng từng hoạt động nhiều năm ở Trung Quốc.

Lý do tiếp theo là Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng có chung biên giới, việc hai nước công nhận lẫn nhau sẽ rất thuận tiện về sau này có thể giúp đỡ nhau. Bên cạnh đó, Trung Quốc là nước lớn, đã có quan hệ hữu nghị truyền thống với nhân dân Việt Nam, từng giúp đỡ lẫn nhau trong xa xưa, cũng như trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Điều đó rất thuận lợi để chúng ta thiết lập quan hệ và thúc đẩy quan hệ sau này.

Còn với Liên Xô, đây là nước đứng đầu các nước XHCN, là trung tâm của cách mạng thế giới. Liên Xô cũng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và cũng là nước mạnh nhất của phe XHCN, do đó có khả năng giúp đỡ nhau thuận lợi. Cùng với đó, Liên Xô lại có chung biên giới với Trung Quốc, cho nên qua Trung Quốc, ta có thể tiếp cận với Liên Xô và tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất, kỹ thuật của Liên Xô.

PV: Dấu mốc năm 1950 có ý nghĩa như thế nào khi Việt Nam mở cánh cửa với thế giới?

GS Vũ Dương Huân: Ý nghĩa lớn nhất của việc thiết lập quan hệ ngoại giao của chúng ta với Liên Xô, Trung Quốc và một loạt nước DCND năm 1950 cực kỳ quan trọng. Nước đầu tiên ta thiết lập quan hệ ngoại giao là Trung Quốc, nước thứ hai là Liên Xô, nước thứ ba là Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên; tiếp đến là các nước DCND ở Đông Âu như Tiệp Khắc, Đức, Romania…

Năm 1950 là dấu mốc ngoại giao “cực kỳ lớn” của Việt Nam. Do đó, việc thiết lập quan hệ ngoại giao hay còn gọi là ngoại giao phá vây thành công. Vì trước đó ta đã từng có những hoạt động để phá vây sang Đông Nam Á nhưng không thành công. Và lần này là phá vây thành công vì lần đầu tiên được các nước trên thế giới công nhận, đặc biệt của hai nước lớn là Liên Xô, Trung Quốc. Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho ngoại giao Việt Nam.  

Ý nghĩa thứ hai là khi ngoại giao phá vây thành công, ta tiếp xúc được với Trung Quốc, Liên Xô, đặc biệt là với Trung Quốc có chung biên giới, ta sẽ tranh thủ được sự viện trợ về vật chất, kỹ thuật, nhất là vũ khí, đạn dược, con người, kể cả giúp đỡ về chính trị, để đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp đến giai đoạn cuối cùng.

Ý nghĩa thứ ba, việc thiết lập quan hệ ngoại giao trong đó có 2 nước lớn là Liên Xô, Trung Quốc đã nâng uy tín của Việt Nam trên thế giới. Từ lúc không ai coi mình là gì, thì bây giờ có các nước công nhận, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc, giúp nâng vị thế, uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Ý nghĩa tiếp theo là việc thiết lập quan hệ ngoại giao nhằm củng cố cơ sở pháp lý vững chắc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau đó, Việt Nam gia nhập các nước XHCN mà sau này người ta gọi là trở thành tiền đồn phe XHCN tại Đông Nam Á. Do vậy, ta đóng một vai trò quan trọng của phe XHCN ở Đông Nam Á.

Ý nghĩa thứ 5, việc Việt Nam được công nhận chính thức, Việt Nam là một ngọn cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc đã đóng góp, tác động của phong trào giải phóng dân tộc. Và một ý nghĩa nữa có thể kể đến, việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước DCND công nhận Việt Nam đã góp phần động viên quân và dân ta chuẩn bị bước vào giai đoạn quyết liệt để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

PV: Khi mở được cánh cửa với thế giới, cách mạng Việt Nam đã được tiếp sức trong kháng chiến chống Pháp, thưa ông?

GS Vũ Dương Huân: Ý nghĩa rất quan trọng của việc mở cửa với thế giới là mình đã phá vây, nghĩa là không bị đơn độc nữa. Vùng giải phóng của ta ở Việt Bắc đã nối được với Trung Quốc, với Liên Xô có ý nghĩa cực kì lớn, ta không bị cô lập về mặt chính trị.

Sau khi có quan hệ, chúng ta có các hoạt động gặp gỡ, trao đổi để tranh thủ viện trợ, đặc biệt viện trợ vũ khí, đạn dược cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Bây giờ muốn kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, chuyển sang giai đoạn tổng tấn công thì phải có ngoại lực. Hai nước đã cam kết giúp chúng ta về vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, để chúng ta có thể chuyển sang giai đoạn tổng tấn công trong cuộc kháng chiến nước Pháp.

Bên cạnh đó, các chuyến thăm giữa lãnh đạo cấp cao của ta tới Trung Quốc, Liên Xô đã củng cố quan hệ giữa Việt Nam với hai nước chặt chẽ hơn, vững chắc hơn.

Rõ ràng, ý nghĩa của việc mở cửa với các nước đã giúp chúng ta tranh thủ được viện trợ vật chất kỹ thuật và giúp ta đánh thắng trong Chiến dịch Biên giới.

PV: Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Uy tín quốc tế của Việt Nam theo ông nhìn nhận, đánh giá như thế nào?

GS Vũ Dương Huân: Sau “ngoại giao phá vây”, chúng ta đã tiếp tục chặng đường ngoại giao với rất nhiều thành công, thành tựu. Đến nay, ngành ngoại giao rất tự hào với chặng đường 80 năm qua.

Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trên trường quốc tế, Việt Nam đã hai lần đảm nhận cương vị thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, hai lần đăng cai APEC…

Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các thành viên Liên Hợp Quốc đã chứng minh úy tín của Việt Nam. Các nước G7, G20 đều có quan hệ với Việt Nam.

Tôi từng đảm nhận cương vị Đại sứ ở Ba Lan và Ukraine và tôi thấy rằng khi hai chữ Việt Nam được nhắc đến đều rất được các nước hoan nghênh tôn trọng.

PV: Những năm qua, Việt Nam đã đón những nhà lãnh đạo hàng đầu của Nga, Trung Quốc, Mỹ tới thăm. Vậy chính sách ngoại giao nhất quán, xuyên suốt của Việt Nam là gì thưa ông?

GS Vũ Dương Huân: Đại hội XI, XII, XIII đã khẳng định chính sách ngoại giao của Việt Nam là “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ”. Chính sách ngoại giao của Việt Nam đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Việt Nam luôn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng cùng có lợi.

Trong quan hệ với các nước lớn, đường lối của Việt Nam là cân bằng, trung lập. Đây là điều cực kỳ khó, không phải nước nào cũng có thể giữ được giữ cân bằng này. Đường lối ngoại giao này vô cùng đúng đắn và cực kỳ quan trọng với Việt Nam.

PV: Khi đất nước sắp bước vào Kỷ nguyên mới (kỷ nguyên vươn mình), ngành ngoại giao sẽ thể hiện vai trò như thế nào để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới?

GS Vũ Dương Huân: Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh đến thời kỳ mới, thời kỳ vươn mình của dân tộc. Đây chính là thời kỳ phấn đấu để đưa đất nước Việt Nam phát triển toàn diện mạnh mẽ. Thực hiện mục tiêu phát triển do Đại hội XII đặt ra là đến năm 2030-2045, đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao.

Trong tâm thế của thời đại mới là tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc để phát triển, vượt qua thách thức, vượt qua chính mình để phát triển. Ngoại giao Việt Nam phải đóng góp trong thực hiện tốt Nghị quyết 57 liên quan đến đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học, công nghệ đổi và kinh tế số. Tinh thần là tranh thủ nguồn lực của bên ngoài, đảm bảo môi trường hòa bình ổn định.

Cùng với đó, tiếp tục thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ mà Đảng đã xác định, trong đó nhấn mạnh việc cân bằng quan hệ các nước lớn. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị, đặc biệt ngoại giao kinh tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng để thực hiện được mục tiêu phát triển 2030-2045.

Tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao đa phương cũng là một mục tiêu cực kỳ quan trọng để Việt Nam phấn đấu là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của thế giới. Từ đó, đẩy mạnh tầm khát vọng theo tinh thần tự lực, tự cường, tự tin, tự hào dân tộc để cũng đưa ngoại giao Việt Nam bước sang giai đoạn mới.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư Vũ Dương Huân!


Thực hiện: Lê Hoàng - Kim Anh | Ảnh, video: Bảo Long

Thứ Tư, 06:04, 26/02/2025