Kinh tế xanh (Green economy) là nền kinh tế ít carbon, giảm thiểu mối nguy hại đến môi trường cũng như tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Nền kinh tế xanh là một khuôn khổ kinh tế lồng ghép các hoạt động kinh tế với vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên. Từ đó, tạo nên sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định nguồn lao động, duy trì hệ sinh thái, giảm thiểu rủi ro môi trường cũng như sự khan hiếm về tài nguyên.
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 của Việt Nam khẳng định mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất. Việt Nam sẽ tận dụng cơ hội từ ứng phó biến đổi khí hậu để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, Chính phủ đã đặt mục tiêu: Cường độ phát thải trên GDP vào năm 2030 giảm ít nhất 15% so với năm 2014, 30% đến năm 2050. Tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom xử lý bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95% đến năm 2030. Tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh. Điển hình như chuyển dịch năng lượng tích cực, trong đó năng lượng tái tạo chiếm khoảng 27,1% trong tổng công suất và 13,7% về sản lượng trong hệ thống điện toàn quốc.
Theo Chỉ số tăng trưởng xanh ấn bản năm 2023, Việt Nam xếp thứ 73/245 quốc gia và thứ 16/50 quốc gia ở châu Á, với điểm chỉ số là 56,44. Việt Nam đã thực hiện tốt các khía cạnh bảo vệ vốn tự nhiên và hòa nhập xã hội nhưng phải đối mặt với những thách thức về khía cạnh hiệu quả tài nguyên và các cơ hội kinh tế xanh. Theo ấn bản năm 2023 của Chỉ số Tương lai Xanh, Việt Nam xếp thứ 53/76 nền kinh tế và thứ 9/16 nền kinh tế ở châu Á, đạt 4,13. Việt Nam xếp ở giữa trong các hạng mục chuyển đổi năng lượng nhưng lại xếp ở hạng thấp trong các hạng mục về phát thải carbon và chính sách khí hậu. Kinh tế xanh ở Việt Nam tạo ra 6,7 tỷ USD vào năm 2020 (2% tổng GDP) với đà tăng trưởng vững chắc (10 - 13%/năm trong giai đoạn 2018 - 2020).
Trong đó, 41% là từ ngành năng lượng, 28% là từ hoạt động nông lâm nghiệp, 14% là từ hoạt động công nghiệp và 17% là từ các ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc, xử lý rác thải và xây dựng. Theo ước tính, năm 2020, nền kinh tế xanh góp phần tạo ra hơn 400.000 việc làm, trong đó hơn một nửa đến từ các hoạt động nông, lâm nghiệp xanh và công nghệ cao (33%) và hoạt động công nghiệp (28%) - chủ yếu là sản xuất thiết bị, máy móc, phụ tùng phục vụ sản xuất năng lượng tái tạo và năng lượng sạch. Tuy nhiên, số lượng việc làm được tạo ra từ các hoạt động kinh tế xanh của Việt Nam vẫn còn tương đối khiêm tốn (1,1% tổng số việc làm quốc gia) so với các nước dẫn đầu (3,3% ở Pháp vào năm 2020 và 6,7% ở Trung Quốc vào năm 2022).
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho rằng, thời gian gần đây, sự hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp về kinh doanh bền vững, giảm phát thải ra môi trường đã được nâng cao rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp đã và đang lấy kinh doanh xanh là chiến lược, làm lợi thế cạnh tranh. Nhiều tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp lớn cũng đã nhanh chóng vào cuộc, đẩy mạnh chuyển đổi xanh phục vụ ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế carbon thấp, hướng tới mục tiêu Net Zero. Tuy nhiên, sự thay đổi này chủ yếu diễn ra ở khối các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khá nhiều nhưng chưa quan tâm thích đáng và chưa có chuyển biến rõ nét. Do vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp cần quyết tâm chuyển đổi mạnh mẽ, đặc biệt nâng cao hiểu biết, nhận thức về trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nắm bắt các quy định liên quan của cả trong nước và quốc tế.
Năm 2020, quy mô nền kinh tế xanh của Việt Nam đạt 6,7 USD, tương đương với 2% GDP. Trong đó, 41% là từ ngành năng lượng, 28% từ hoạt động nông – lâm nghiệp, 14% từ hoạt động công nghiệp và 17% từ các ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc, xử lý rác thải và xây dựng. Thời gian qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế xanh của Việt Nam đã giảm khoảng 10 – 12%/năm và hiện nay, quy mô ước đạt 4 – 4,5% trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nâu vẫn tới 95% quy mô nền kinh tế.
Việc chuyển đổi kinh tế xanh là yêu cầu bắt buộc trên thế giới, với công cụ là mô hình kinh tế tuần hoàn. Kinh tế tuần hoàn không chỉ tập trung vào nền kinh tế xanh, mà còn chú trọng chuyển đổi từ nâu sang xanh và cả kinh tế nâu. Chính vì vậy, đây được coi là mô hình điển hình trên thế giới để có thể đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” và rác thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Kể từ năm 1997, thế giới đã ký Nghị định thư Kyoto về giảm phát thải khí nhà kính. Đến Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2015, các nước đã thống nhất thực hiện cái chương trình Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Theo đó, các nước phát triển và các nước đang phát triển sẽ cùng phải thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, các nước đang phát triển có hai mức: trong điều kiện của quốc gia và có sự hỗ trợ quốc tế.
Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam đã đề ra mục tiêu sẽ giảm 15,8% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường vào năm 2030, và tăng lên 43,5% nếu có sự hỗ trợ quốc tế. Đây là dấu mốc thể hiện cam kết của Việt Nam với toàn cầu, góp phần thực hiện mục tiêu giữ cho mức tăng nhiệt độ toàn cầu không quá 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ sẽ phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Việt Nam đã đi trước rất nhiều các nước như: Brazil, Ukraine, Nga, Trung Quốc, Indonesia… là những nước phát thải nhiều hơn chúng ta rất nhiều. Hiện nay, Việt Nam là một trong 3 nước đã ký Thỏa thuận chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Theo đó, các đối tác phát triển sẽ hỗ trợ 15,5 tỷ USD nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam. Đây là nguồn vốn đầu tiên, dẫn dắt để có thể huy động nguồn lực lớn hơn từ quốc tế thực hiện mục tiêu giảm phát thải trong lĩnh vực năng lượng, chuyển đổi kinh tế từ nâu sang xanh. Đây sẽ là cơ hội lớn về tài chính khí hậu đối với doanh nghiệp.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ cho biết, từ năm 2017, Việt Nam phải nhận thẻ vàng về thủy, hải sản. Tháng 10/2023, Liên minh châu Âu đã áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), tác động trực tiếp đến sản phẩm xuất khẩu của 4 ngành hàng thép, nhôm, phân bón, xi măng. Sắp tới, từ 1/1/2025, tất cả các cái mặt hàng nông sản xuất khẩu sang Châu Âu có nguồn gốc từ phá rừng sau ngày 31/12/2020 sẽ không được thông quan. Mỹ cũng đã đưa ra dự thảo về Luật Cạnh tranh và dự kiến áp dụng quy định tương tự CBAM ở châu Âu. Anh cũng đã thông qua quy định về CBAM riêng.
Có thể thấy, tất cả những quy định toàn cầu gần đây đã làm thay đổi cấu trúc thương mại, đầu tư toàn cầu. Các yêu cầu đều đã tập trung hướng vào mục tiêu xanh nhằm ứng phó với 3 cuộc khủng hoảng hành tinh, đó là: Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học. Trong bối cảnh đó, nếu doanh nghiệp của Việt Nam không chuẩn bị sẵn sàng sẽ không có khả năng đối mặt với tình hình mới.
Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tích cực xây dựng báo cáo ESG và báo cáo phát triển bền vững để đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của Châu Âu, cũng như các thị trường giá trị thương mại lớn khác. Khác với trước đây, rủi ro của doanh nghiệp có thể được xác định dựa trên lịch sử hoạt động của doanh nghiệp và tác động diễn ra từ từ. Hiện nay, doanh nghiệp có thể đột ngột bị loại khỏi thị trường nếu không tuân thủ theo quy định. Và như vậy, dòng xuất khẩu và đầu tư cũng sẽ dừng đột ngột. Các tiêu chuẩn báo cáo phổ biến hiện nay là Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS); Sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI). Hai hệ thống tiêu chuẩn này còn đi kèm theo các báo cáo khác, như công bố tài chính liên quan đến khí hậu (TCFD)… Đây là những bộ tiêu chuẩn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hướng tới và thực hiện.
“Các doanh nghiệp cần ý thức rằng, nội dung đưa vào báo cáo không chỉ có hoạt động trồng cây, làm từ thiện mà đây là trách nhiệm doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định quốc tế, quy định pháp luật của Việt Nam. Trong Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng Ozon, nhận báo cáo phát thải của doanh nghiệp phải đạt tiêu chuẩn ISO 14065 và thực hiện báo cáo phát thải theo ISO 14064. Việc phát triển bền vững theo đúng tiêu chuẩn quốc tế là yêu cầu tất yếu để doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp tục tham gia thương mại toàn cầu. Động lực từ doanh nghiệp và người dân tích cực tham gia chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi kinh tế tuần hoàn, các bon thấp sẽ giúp Việt Nam có thể tiếp tục duy trì vị trí trong 20 nước có quy mô thương mại toàn cầu lớn nhất thế giới. Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn chính là cách để doanh nghiệp gia tăng giá trị của mình. Hiện nay và trong thời gian các nhà sản xuất nhất là doanh nghiệp xuất khẩu phải thực hiện các quy định của luật chơi mới. Không còn là tự nguyện nữa mà phải chuyển đổi, chấp nhận hay là đào thải khỏi sân chơi. Kinh tế xanh giúp tiết kiệm tài nguyên đồng thời giảm chi phí bằng cách biến chất thải của một ngành thành nguyên liệu cho ngành khác. Góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu phát thải khí nhà kính và biến đổi khí hậu. Thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn tạo ra công việc và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng."