Nhiều năm trước, tôi có xem một bộ phim tài liệu về câu chuyện của một nữ bác sĩ ở Sài Gòn. Hồi đó đất nước mới thống nhất, còn khó khăn đủ bề, nhiều trí thức của thành phố đã chọn ra nước ngoài sinh sống. Chồng bà lúc ấy đang ở bên Pháp, làm thủ tục bảo lãnh cho bà và 3 con của họ sang định cư. Nhưng cuối cùng, người phụ nữ (lúc ấy mới ngoài 30 tuổi) quyết định chọn ở lại Việt Nam. Đó là câu chuyện về GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng. Suốt đời cống hiến cho y học Việt Nam, với những thành quả trong nghiên cứu và thực tiễn, năm 2000, GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. 

Mới đây, tôi được xem hai tấm hình chụp GS BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng con gái của bà- PGS TS Vương Thị Ngọc Lan tại các Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc 12/2020 và năm 2000. Tìm hiểu thông tin về Vương Thị Ngọc Lan, tôi được biết chị đã tiếp nối một cách xuất sắc sự nghiệp của mẹ. PGS TS BS Vương Thị Ngọc Lan hiện là Quyền Trưởng Khoa Y, kiêm Trưởng Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM. Chị có nhiều công trình khoa học được công bố quốc tế, được ghi nhận đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực của mình. Càng thú vị hơn nữa khi tôi được biết con gái lớn của Ngọc Lan là Lan Nhi, hiện là sinh viên Y khoa, cũng đang bước chân vào lĩnh vực của bà ngoại và cha mẹ. 

Cuộc trò chuyện với PGS. TS. BS. Vương Thị Ngọc Lan, vì thế, bắt đầu bằng câu hỏi về mẹ của chị, và về tình yêu nước… 

PV: Thưa chị, mẹ của chị, GS. BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng có ảnh hưởng thế nào đối với sự nghiệp của chị? Mới đây, chị và GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng đi dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc, đó là hình ảnh rất đẹp của hai nhà khoa học nữ, hai thế hệ trong một gia đình, và đúng là những người yêu nước…  

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Gia đình tôi khá đặc biệt. Tôi không ở gần ba tôi từ khi rất nhỏ. Tôi lớn lên hầu như chỉ có mẹ. Khi tôi còn nhỏ, mẹ vừa là mẹ, vừa là ba của tôi. Mẹ tôi rất bận rộn, lo cho công việc của bệnh viện, điều trị bệnh nhân, giảng dạy sinh viên, tham gia công tác chính trị, xã hội, đoàn thể… không có nhiều thời gian cho gia đình. Chị em chúng tôi (3 chị em gái) được mẹ huấn luyện từ nhỏ về tính tự lập, suy nghĩ mạnh mẽ, nghị lực và bản lĩnh vượt khó. 

Khi tôi vào trường Y, mẹ tôi là người thầy của tôi. Tôi chứng kiến những hy sinh của mẹ cho nghề nghiệp, thương yêu bệnh nhân, những lần quyết liệt cứu bệnh nhân nặng bằng mọi giá… Tôi vẫn nhớ mẹ nói với tôi: “Phải cố gắng cứu sống người phụ nữ này vì không thể để cho những đứa trẻ mất mẹ, nhất là con gái lớn lên mà không có mẹ bên cạnh thì rất khổ. Mà muốn cứu được bệnh nhân, điều trị tốt nhất cho bệnh nhân thì mình phải giỏi chuyên môn, đó là điều tiên quyết. Và mình phải có tấm lòng”. 

Hiện nay, mẹ tôi đã về hưu. Mẹ giúp tôi chăm sóc, dạy dỗ con cái. Tôi nghĩ mình có nhiều đặc điểm về tính cách giống mẹ. 

Mẹ và tôi có kỷ niệm đẹp là 2 lần được dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc cùng nhau, cách nhau 20 năm. Năm 2000, mẹ nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, còn tôi là 1 trong 10 Gương mặt trẻ Việt Nam. Năm 2020, tôi nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu cho Nhà khoa học xuất sắc và mẹ tôi là khách mời tham dự Đại hội. 

Tôi nghĩ, yêu nước là tự hào về đất nước mình, luôn mong muốn và tìm cách làm cho đất nước mình giàu mạnh hơn. Lòng yêu nước cần được thể hiện bằng những hành động cụ thể, tùy theo khả năng của mình…

PV: Được biết chị có được nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín của thế giới. Chị nghĩ như thế nào về tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học với người làm việc trong ngành Y?

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Trước hết, cần nhấn mạnh rằng, nghiên cứu khoa học và công bố khoa học là công việc của một tập thể. Không thể có một nghiên cứu chất lượng, một công bố khoa học tốt nào mà chỉ do một người thực hiện. 

Tôi may mắn được làm việc cùng một nhóm nghiên cứu được tổ chức chuyên nghiệp, chuẩn mực, chất lượng và đầy nhiệt huyết. Các thành viên có kỹ năng làm việc nhóm, có sự phối hợp đồng bộ, mỗi người làm đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong nhóm, góp phần cho việc hoàn thành nghiên cứu và duy trì công bố khoa học đều đặn.

Để có thể có những công bố trên các tạp chí chuyên ngành uy tín, nghiên cứu cần phải có phẩm chất khoa học cao, vấn đề nghiên cứu có tính thời sự, kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn và cuối cùng, bài báo khoa học cần được trình bày đúng chuẩn mực về nội dung và hình thức. Tất cả những điều này đều cần phải được đầu tư, rèn luyện và thực hiện trong nhiều năm. 

Thật ra, công bố khoa học, đặc biệt trên các tạp chí có chỉ số tác động cao, chỉ minh chứng cho chất lượng, tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu và phương pháp tiến hành nghiên cứu chuẩn mực. Theo tôi, vấn đề cần quan tâm khi thực hiện nghiên cứu là kết quả của nghiên cứu được áp dụng vào thực tiễn thì giúp ích được điều gì. Nghiên cứu xong mà đem cất vào tủ là những nghiên cứu không hiệu quả, tốn kém nguồn lực. Ngoài ra, nghiên cứu phải có tính khách quan, phải có thể lặp lại được. Không thể nói là nghiên cứu này chỉ có một mình mình làm được, không ai khác làm được nữa, như vậy có vẻ đó chỉ là một biến cố xảy ra tình cờ, do cơ hội, mà không phải là nghiên cứu lâm sàng và phục vụ cho điều trị lâm sàng. 

Nghiên cứu khoa học và công bố khoa học là một trong những nhiệm vụ của một người làm trong ngành Y. Nghiên cứu khoa học trong ngành Y giúp tìm ra các cơ chế gây bệnh, diễn biến của bệnh, phương cách điều trị bệnh hiệu quả và những kiến thức khác nữa về bệnh. Kết quả của những nghiên cứu cần được công bố, ngay cả là kết quả âm tính, bởi vì nó là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo hoặc được ứng dụng để cải thiện hiệu quả điều trị. 

Nhiều người, nhiều nơi trên thế giới làm nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu của mình trên y văn thế giới một cách liên tục…, từ đó kiến thức y học được tích lũy, tổng hợp; dẫn đến các phát kiến và cải tiến trong thực hành y khoa. Đó là cách mà y học thế giới phát triển trong hàng trăm năm qua. 

Từ trước đến nay, Việt Nam ta hầu như chỉ sử dụng các kiến thức từ thế giới. Hiện nay, chúng ta bắt đầu đóng góp kiến thức và từng bước góp phần thay đổi thực hành y khoa thế giới. 

PV: Chị có thể lấy ví dụ về một đề tài, một vấn đề nghiên cứu mới đây và những kết quả thú vị của nó? 

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Nghiên cứu về Nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (In-Vitro Maturation – IVM) là một ví dụ. 

Năm 1997, khi mới bắt đầu thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In-Vitro Fertilization – IVF) ở Việt Nam, chúng tôi đối diện với 2 vấn đề khó khăn. Một là kinh phí thực hiện IVF, hai là biến chứng liên quan đến kích thích buồng trứng như tình trạng quá kích buồng trứng. Chúng tôi tự hỏi có cách nào làm giảm chi phí điều trị và tránh quá kích buồng trứng cho các bệnh nhân có nguy cơ không? 

Chúng tôi tìm hiểu và tham quan trung tâm thực hiện IVM đầu tiên ở Nhật. Sau đó, chúng tôi triển khai thực hiện IVM ở Việt Nam. 

Sự khác nhau giữa Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có kích thích buồng trứng và kỹ thuật IVM như thế này: 

Bình thường, để làm TTTON, người vợ phải được kích thích buồng trứng, tiêm tổng cộng ít nhất 15 mũi thuốc trở lên và tiêm mỗi ngày trong vòng khoảng 2 tuần (có thể  lâu hơn). Trong thời gian này, người vợ phải đến bệnh viện theo hẹn để siêu âm và xét nghiệm máu kiểm tra. Đến khi đạt yêu cầu, người vợ sẽ được hẹn đến bệnh viện để chọc hút trứng. Sau khi kích thích buồng trứng, đa số noãn chọc hút được (khoảng trên 80%) đều ở giai đoạn trưởng thành để thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi. Qui trình từ lúc tiêm thuốc đến khi tạo phôi mất hơn 2 tuần, tiêm  nhiều thuốc nội tiết và đi lại nhiều lần. 

Trong kỹ thuật IVM cải tiến hiện nay, để thực hiện TTTON, người vợ chỉ cần tiêm 2 mũi thuốc liều thấp, sau đó được chọc hút trứng từ những nang nhỏ. Các noãn chọc hút được đều còn non. Các chuyên gia phôi học sẽ tiếp tục nuôi trưởng thành noãn trong 2 ngày, sau đó đa số noãn sẽ phát triển đến giai đoạn trưởng thành và có thể thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi. Với IVM, khi làm TTTON, qui trình từ đầu đến tạo phôi chỉ mất 6 ngày, giảm đến 90% lượng thuốc nội tiết phải tiêm. 

Chúng tôi đã theo đuổi đề tài IVM này trong suốt 14 năm, kết quả khả quan: Hiện nay, Việt Nam được xem là một trong những quốc gia đi đầu trên thế giới về áp dụng và cải tiến kỹ thuật IVM trong hỗ trợ sinh sản. Các chuyên gia của Việt Nam được mời báo cáo, chia sẻ kinh nghiệm về IVM tại các hội nghị chuyên ngành của thế giới như ESHRE (Hiệp hội Sinh sản người và Phôi học Châu Âu) với khoảng hơn 10.000 đại biểu tham dự hàng năm, ASRM (Hội Y học Sinh sản Hoa kỳ) với khoảng gần 10.000 đại biểu tham dự hàng năm, ASPIRE (HSinh sản Châu Á – Thái Bình Dương) với khoảng 2.000 đại biểu tham dự hàng năm. Chúng tôi đã công bố 8 bài về đề tài IVM trên tạp chí chuyên ngành uy tín (Q1). Chúng tôi mở lớp huấn luyện cho các bác sĩ IVF trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, có cả chuyên gia đến từ Mỹ, Australia… sang học kỹ thuật này. 

Kết quả của các nghiên cứu và công bố về IVM của Việt Nam đã đóng góp vào việc thay đổi thực hành của thế giới về IVM, cụ thể là trong khuyến cáo mới nhất, công bố năm 2021 của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ về việc áp dụng IVM trong hỗ trợ sinh sản đã sử dụng nhiều dữ liệu từ các công bố khoa học của Việt Nam. Kỹ thuật IVM hiện nay được thực hiện cho nhiều bệnh nhân người Việt Nam với tỉ lệ thành công cao, an toàn, thuận tiện và giảm chi phí cho bệnh nhân. 

Tóm lại, chùm đề tài nghiên cứu về IVM là minh chứng cho đề tài nghiên cứu khoa học có chất lượng, được công bố trên các tạp chí chuyên ngành uy tín, góp phần làm tăng uy tín cho các nhà khoa học Việt Nam và đặc biệt là nghiên cứu có tính ứng dụng thực tiễn cao, giúp điều trị hiệu quả, giảm chi phí, giảm biến chứng của điều trị, mang lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng hiếm muộn tại Việt Nam và trên thế giới.

PV: Được biết, hầu như chị chỉ học ở trong nước (chỉ đi học Thạc sĩ ở nước ngoài năm 1998-1999 tại Singapore), nhưng vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng kể được nước ngoài công nhận (có nhiều công trình đăng trên các tạp chí khoa học uy tín, chủ tọa nhiều hội nghị y học...). Vì sao chị lại không chọn con đường du học như nhiều người khác và chị có nghĩ là bạn trẻ, nếu có điều kiện, nên du học nước ngoài?

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Theo tôi, điều quan trọng chúng ta cần xác định không phải là học ở nước ngoài hay học trong nước, mà chính là mục tiêu chúng ta học để làm gì, định hướng phát triển nghề nghiệp ra sao, còn học ở đâu chỉ là phương cách để  đạt được mục tiêu, theo đúng định hướng của mình. 

Đi học nước ngoài hay học trong nước, mỗi cách có ưu và nhược điểm riêng.

Ngoài các vấn đề liên quan đến cá nhân, đi học nước ngoài giúp chúng ta có cách suy nghĩ, tiếp cận đa chiều đối với một vấn đề; hiểu biết và thích ứng với sự khác biệt về văn hóa và có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với các nhân vật lớn để học từ họ. Tuy nhiên, ngay cả khi đi học nước ngoài, không phải ai cũng có điều kiện và khả năng để làm được những điều như trên. Ngoài ra, khi học nước ngoài về, không phải lúc nào cũng áp dụng được những điều mình học vào thực tế ở Việt Nam. 

Học trong nước thì điều kiện khó khăn hơn, tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam ngày càng phát triển. Thế giới ngày nay là “thế giới phẳng”, do đó, không nhất định phải ở nước ngoài thì mới có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với cái hay, cái mới. Hơn nữa, ở tại Việt Nam, chúng ta sẽ hiểu biết điều kiện của Việt Nam, hiểu biết hệ thống y tế của Việt Nam, việc áp dụng những điều học được vào thực hành sẽ tốt hơn, sát thực tế hơn. 

Tóm lại, nỗ lực học tập (có thể trong hay ngoài nước), tiếp cận sự hỗ trợ của chuyên gia (trong và ngoài nước), tận dụng công nghệ tiên tiến, tin vào bản thân và tổ chức của mình, bền bỉ rèn luyện và nắm bắt cơ hội… đó là các yếu tố giúp đạt được mục tiêu phát triển của bản thân mình.

Tôi học Thạc sĩ Phôi học lâm sàng 1998-1999 tại Khoa Y, Đại học Quốc gia Singapore. Khóa học này đào tạo các chuyên gia thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Singapore là quốc gia đầu tiên của Châu Á thành công TTTON vào năm 1983. Khi tôi đi học, chúng tôi mới thực hiện được 74 ca TTTON đầu tiên ở Việt Nam, với sự hỗ trợ của các chuyên gia ở Nice, Pháp. Khóa học này giúp tôi có được các kiến thức nền tảng cơ bản về TTTON. 

Sau đó, việc tiếp tục phát triển chuyên ngành TTTON ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế là chúng tôi tự mày mò cách làm trong thời gian làm việc ở Việt Nam. Lần đầu tiên tôi có bài báo cáo tại Hội nghị chuyên ngành quốc tế là vào năm 2001 tại Lausanne, Thụy Sĩ. Thông qua những lần báo cáo hội nghị, bài công bố quốc tế, chúng tôi có dịp tiếp xúc với các chuyên gia, cộng tác cùng với họ, dần dần hiểu biết nhiều hơn về cách làm và hệ thống công bố khoa học của thế giới. Từ đó, chúng tôi vừa học, vừa làm nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. 

Hiện tại, sau khi chúng tôi có nhiều bài báo công bố trên các tập san khoa học uy tín và nhiều bài báo cáo tại các diễn đàn khoa học thế giới và khu vực; nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới đã liên hệ muốn hợp tác cùng chúng tôi, bao gồm các trung tâm nghiên cứu thuộc các trường đại học lớn ở Châu Âu, Châu Á, Mỹ, Australia. 

PV: Chị vừa thành công trong sự nghiệp vừa có một gia đình hạnh phúc. Bí quyết của chị là gì vậy ạ?

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Tôn trọng, chia sẻ và đồng lòng của các thành viên trong gia đình.

Cả gia đình chúng tôi đều rất bận. Tuy nhiên, cả nhà cố gắng giữ nếp là ăn tối cùng nhau để chia sẻ với nhau những chuyện xảy ra trong ngày, những suy nghĩ, những băn khoăn… Vì cùng làm chung ngành nên bữa cơm gia đình hầu như cũng thường bàn bạc về chuyên môn, như buổi giao ban vậy!.

Tuy bận rộn, nhưng chúng tôi luôn ưu tiên lắng nghe những việc của con cái, giải đáp những thắc mắc của con, có thể bất kỳ lúc nào, khi con nhắn tin, gọi điện…

Với con gái đang học ngành Y, tôi dành thời gian tập cho cháu viết bài về các chủ đề khoa học. Nêu gương cũng là một cách giáo dục tốt. Chúng tôi đọc sách, viết bài, nghiên cứu… thì các con cũng tập tành như vậy.

PV: Vâng, nhưng một phụ nữ vừa làm chuyên môn vừa quản lý, vừa nghiên cứu, giảng dạy... chắc chắn là vất vả và thiếu thời gian, chị có thu xếp được  để thường xuyên đi du lịch hay thoả mãn sở thích của mình?

PGS TS Vương Thị Ngọc Lan: Thật vậy, có lúc tôi ước mong một ngày của mình có hơn 24 tiếng đồng hồ để có thể chu toàn các công việc. Sở thích của tôi là đọc sách, do vậy, tôi có thể tranh thủ đọc bất cứ lúc nào. Những lúc đi công tác xa trở về, thời gian ngồi trên máy bay là khoảng thời gian tôi “tự thưởng” cho mình được đọc sách truyện, tiểu thuyết…mà không phải là sách về chuyên môn, giáo dục…

Đi du lịch thì mỗi năm, cả nhà cũng cố gắng thu xếp đi cùng nhau 1-2 lần. Tôi nghĩ những lần du lịch thế này rất cần thiết để gắn kết các thành viên trong gia đình. 

Đối với tôi, công việc, con cái và gia đình đều quan trọng như nhau. Mà đã là quan trọng thì phải dành thời gian cho nó, chỉ là lúc nào cần tập trung nhiều hơn cho việc nào mà thôi. Các thành viên trong gia đình đều hiểu công việc của nhau, thông cảm, chia sẻ với nhau các công việc sẽ giúp cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

PV: Xin cảm ơn chị! Chúc chị và gia đình hạnh phúc, thành công hơn nữa trong năm mới!./.


PGS TS BS Vương Thị Ngọc Lan

  • Bác sĩ Y khoa – Đại học Y Phạm Ngọc Thạch (1996)
  • Thạc sĩ Phôi học lâm sàng – Đại học Quốc gia Singapore (1999)
  • Bác sĩ nội trú Sản Phụ khoa – Đại học Y Dược TPHCM (2003)
  • Tiến sĩ Y khoa – Đại học Y Dược TPHCM (2016)
  • Phó Giáo sư ngành Sản Phụ khoa – Đại học Y Dược TPHCM (2019)

Các giải thưởng, danh hiệu

  • Giải thưởng Kovalevskaia (Tập thể) – 1998
  • Là 1 trong 10 Gương mặt trẻ tiêu biểu Việt Nam – 1999
  • Giải thưởng Nhà nước về thành tựu y học (Tập thể) – 2005
  • Giải thưởng Alexandre Yersin cho nghiên cứu Y học xuất sắc – 2018
  • Giải thưởng Tạ Quang Bửu cho Nhà khoa học xuất sắc – 2020

Các thành tích công bố khoa học

  • Tác giả và đồng tác giả hơn 50 bài báo trên các tập san y học uy tín trên thế giới. Trong đó có các tập san danh tiếng như New England Journal of Medicine (NEJM), British Medical Journal (BMJ), Human Reproduction, Fertility and Sterility… 
  • Được mời làm chủ toạ (chairperson) và báo cáo viên khách mời (invited speakers) tại hơn 40 các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế.
  • Tác giả và đồng tác giả hơn 100 bài báo trên các tập san y học uy tín trong nước

Thống kê các chỉ số công bố khoa học (Theo thống kê Google Scholar, đến 15/12/2020)

  • Tổng số “citation”: 804 (là tổng số lần các bài nghiên cứu của tác giả được trích dẫn trên y văn thế giới)
  • Chỉ số “h-index”: 15 (chỉ số đánh giá chất lượng của nghiên cứu được công bố, nghĩa là số công bố được trích dẫn nhiều lần)

Hoạt động khoa học chuyên ngành

  • Phó Trưởng Nhóm soạn thảo Hướng dẫn lâm sàng về kỹ thuật IVF/ICSI, thuộc Dự án hướng dẫn lâm sàng thế giới về Chẩn đoán và Xử trí Hiếm muộn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
  • Thành viên Nhóm biên soạn các tiêu chuẩn đầu ra của các nghiên cứu lâm sàng về hiếm muộn của Thư viện Cochrane (COMMIT)
  • Thành viên Nhóm nghiên cứu quốc tế về bệnh nhân tiên lượng kém trong hỗ trợ sinh sản (POSEIDON)
  • Thành viên Ban biên tập (Associate Editor) của Tạp chí Fertility and Reproduction của Hội Sinh sản Châu Á – Thái Bình Dương (ASPIRE), của Tạp chí MedPharmRes (Tạp chí quốc tế của Đại học Y Dược TPHCM, của Tạp chí Phụ Sản (Hội Phụ Sản Việt Nam).
  • Bình duyệt viên của các tạp chí chuyên ngành uy tín: Human Reproduction Update, Human Reproduction, Human Reproduction Open, Scientific Report, Reproductive BioMedicine Online, BMC Pregnancy and Childbirth, Gynaecological Endocrinology, Reproductive Biology and Endocrinology, ….
  • Thành viên trung tâm nghiên cứu sức khoẻ sinh sản HOPE Research Center (Việt Nam) 
  • Giảng viên của nhiều khoá học, tập huấn khu vực, quốc tế và ở Việt Nam về Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và nghiên cứu lâm sàng .
Thứ Ba, 06:00, 19/01/2021