Đoàn Thể thao Việt Nam đã gây tiếng vang lớn khi thống trị Đông Nam Á ở 2 kỳ SEA Games gần nhất là 31 và 32. Nếu như ở SEA Games 31 chúng ta làm mưa làm gió trên sân nhà thì tại SEA Games 32, Thể thao Việt Nam cũng thống trị trên đất Campuchia cho dù nội dung và các môn thi đấu có nhiều sự thay đổi.
Đánh giá về sự thành công của Thể thao Việt Nam ở 2 kỳ SEA Games gần nhất, nhà báo Đặng Việt Cường cho rằng: “Có thể nói rằng, 2 kỳ SEA Games gần nhất là 2 kỳ đại hội đặc biệt thành công của Thể thao Việt Nam. Chương trình thi đấu ở SEA Games 31 tổ chức tại Việt Nam là chuẩn Asiad và Olympic và Thể thao Việt Nam đã dẫn đầu một cách thuyết phục.
Tới kỳ SEA Games 32 trên đất Campuchia với chương trình thi đấu thay đổi rất nhiều, nhưng Thể thao Việt Nam vẫn khẳng định được vị thế với ngôi nhất toàn đoàn. Đây là lần đầu tiên Thể thao Việt Nam nhất ở 2 kỳ SEA Games gần nhất và cũng lần đầu tiên nhất toàn đoàn khi tổ chức ở ngoài lãnh thổ Việt Nam”.
Sau 2 kỳ SEA Game dẫn đầu toàn đoàn, thử thách cho Thể thao Việt Nam tại kỳ SEA Game 33 là rất lớn. Bởi lẽ, kỳ đại hội năm 2025 sẽ được tổ chức trên đất Thái Lan, một cường quốc của thể thao khu vực. Mục tiêu của Đoàn Thể thao Việt Nam là giành từ 75 đến 85 HCV để nằm trong tốp 3.
Trên thực tế, kể từ SEA Games 2003 cho tới nay, Thể thao Việt Nam luôn nằm trong tốp 3 của khu vực Đông Nam Á. Do đó, mục tiêu mà lãnh đạo ngành thể thao và các bộ phận chuyên môn đặt ra là hoàn toàn có cơ sở và khả năng hoàn thành nhiệm vụ là rất cao. Bởi sự đầu tư cho SEA Games cũng như chất lượng vận động viên của chúng ta so với mặt bằng chung của khu vực là rất tốt.
Nhà báo Đặng Việt Cường cho rằng: “Theo đánh giá của tôi thì nền tảng, gốc rễ và sự tích lũy thì chúng ta luôn nằm trong tốp đầu SEA Games. Nếu tính ở SEA Games thì Việt Nam và Thái Lan là hai đoàn mạnh nhất. Với cách thức phát triển, nguồn lực đầu tư như hiện tại thì Việt Nam vẫn có thể bảo vệ thành công một vị trí trong tốp 3”.
Trước những thách thức dành cho Thể thao Việt Nam ở SEA Games 33 trên đất Thái Lan, nhà báo Đặng Việt Cường khẳng định: “Thái Lan là quốc gia có nền thể thao mạnh và đều ở các môn. Do đó, các chương trình thi đấu của họ tương đối chuẩn có nhiều môn ở Asiad và Olympic nên đây là cơ hội cho Thể thao Việt Nam đua tranh. Tất nhiên, sẽ có những khó khăn, bởi Thái Lan luôn coi Việt Nam là đối thủ chính nên họ sẽ cạnh tranh quyết liệt với chúng ta ở nhiều môn, đặc biệt là các môn thể thao Asiad hay Olympic”.
Theo báo cáo tổng kết năm 2024 và phương hướng nhiệm vụ của Thể thao Việt Nam trong năm 2025 mà Cục Thể dục thể thao công bố thì năm 2024, Thể thao Việt Nam đạt 1.365 huy chương quốc tế các loại (542 HCV, 406 HCB, 417 HCĐ). Trong đó, nổi bật là đội tuyển futsal nữ lần đầu vô địch Đông Nam Á, 16 vận động viên ở 11 môn giành vé dự Olympic Paris và Trịnh Thu Vinh xuất sắc vào chung kết hai nội dung 10m súng ngắn hơi (hạng 4) và 25m súng ngắn thể thao.
1.365 huy chương quốc tế các loại là con số ấn tượng của Thể thao Việt Nam trong năm 2024. Tuy nhiên, trong số này chúng ta lại không giành được huy chương nào tại Olympic Paris 2024. Đây cũng là kỳ đại hội thứ 2 liên tiếp Việt Nam trắng tay ở đấu trường Olympic.
Trả lời phỏng vấn VOV.VN về nguyên nhân thất bại của Thể thao Việt Nam tại đấu trường Olympic, ông Trần Đức Phấn nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục thể thao cho rằng: “Thành tích trên phản ánh đúng thực lực, trình độ của các vận động viên Việt Nam. Mặc dù đã có bước chuyển mình, nhưng thể thao Việt Nam chưa có VĐV nào đạt đẳng cấp tốp đầu Olympic. Ví dụ như Thái Lan sở hữu Panipak Wongpattanakit mà dù chưa thi đấu ai cũng đoán được cô sẽ đoạt HCV Olympic Paris 2024.
Với lực lượng trong giai đoạn hiện nay, đấu trường phù hợp nhất mà Thể thao Việt Nam có thể cạnh tranh thứ hạng cao vẫn là SEA Games. Từ trước đến nay, Thể thao Việt Nam đã giành trọn bộ huy chương vàng, bạc, đồng ở Olympic, nhưng số lượng rất ít. Thể thao Việt Nam đến với Olympic chưa hoàn toàn để tranh chấp huy chương”.
Trong khi đó, nhà báo Đặng Việt Cường cho rằng: “Vấn đề này đã diễn ra nhiều năm và nhiều chu kỳ Asiad và Olympic mà nhiều người thấy, nhưng chưa giải quyết được. Có thể nói, thành tích ở Asiad và Olympic phản ánh đúng thực trạng của nền thể thao Việt Nam.
Mổ xẻ ra thì có nhiều vấn đề. Đầu tiên là thể thao thành tích cao thế giới trình độ phát triển quá cao. Trong khi đó, nguồn lực cho thể thao Việt Nam lại đang rất hạn chế, đặc biệt là điều kiện cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật và cả nhân lực.
Quan trọng nhất là chúng ta bị ảnh hưởng bởi cách nghĩ và làm ở SEA Games. Chúng ta biết rằng, trình độ ở SEA Games rất là thấp so với đấu trường châu lục và thế giới. Thậm chí, những tấm HCV ở SEA Games còn không thể giành được HCĐ ở Asiad, ví dụ như ở môn điền kinh. Điền kinh Việt Nam giành hơn 10 HCV ở SEA Games, nhưng ra Asiad lại không giành được huy chương nào”.
Sau mỗi thất bại ở các kỳ Asiad hay Olympic, những người làm Thể thao Việt Nam, truyền thông và các chuyên gia đều đi tìm nguyên nhân để mổ xẻ, phân tích và tìm cách khắc phục. Tuy nhiên, nó vẫn là câu chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Bởi lẽ, nhiều vấn đề đã được nhìn nhận ra, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau mà không thể thực hiện được hoặc làm chưa tới.
Vậy làm cách nào để Thể thao Việt Nam vươn mình tại Asiad và Olympic, ông Trần Đức Phấn cho rằng: “Trước đây, tôi từng khẳng định, Thể thao Việt Nam cần xác định rõ 3 trọng điểm: Môn thể thao trọng điểm, nội dung trọng điểm và VĐV trọng điểm. Tuy nhiên, bây giờ câu chuyện không dừng lại ở 3 trọng điểm mà cần giải pháp trọng điểm và đột phá thì Thể thao Việt Nam mới giải được bài toán Olympic. Tiếc rằng, đầu tư của Thể thao Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, khoa học, ứng dụng, y sinh học trong thể thao”.
Với các quốc gia phát triển, những nền thể thao hàng đầu châu lục và thế giới, ngoài việc đầu tư tiền bạc, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào thể thao thì một yếu tố không thể thiếu dẫn tới thành công, đó chính là xã hội hóa thể thao. Trong cuộc trả lời phỏng vấn VOV.VN về nguyên nhân mà Thể thao Việt Nam trắng tay tại Olympic Toky, chuyên gia Nguyễn Hồng Minh đã từng đề cập tới vấn đề này.
Chuyên gia Nguyễn Hồng Minh cho rằng: “Thể thao Việt Nam phải huy động được nguồn lực của xã hội chứ không chỉ dựa vào số tiền của Chính phủ, mỗi năm mấy trăm tỷ là rất hạn hẹp. Nó không thể đủ sức để đầu tư cho thể thao thành tích cao được, tất cả các nước khác đều như vậy.
Những nước xung quanh mình như Philippines, Indonesia, Thái Lan hoàn toàn là kinh phí do tư nhân xã hội hóa chứ không phải do Chính phủ. Đó là con đường của các nước đã đi còn Việt Nam không phải là chậm mà làm chưa đúng quy hoạch, chưa thúc đẩy thể thao không trở thành một chiến lược mạnh mẽ theo đúng quy luật, vẫn quan liêu bao cấp, chỉ dựa vào Nhà nước. Do đó, chỉ có thể làm được một số vận động viên mà không thể làm dài hơi được và chất lượng không đảm bảo.
Về con người thì trình độ huấn luyện viên cũng thấp, nhưng không phải là bản thân họ muốn thấp mà vì chưa được đào tạo chính quy hiện đại, chưa được nâng cao trình độ để đưa vận động viên đến tầm Olympic được, cho nên vận động viên nỗ lực, cố gắng nhưng chỉ đạt được đến đấy”.
Rõ ràng, để Thể thao Việt Nam có thể vươn tâm Asiad và Olympic thì đó là câu chuyện không chỉ riêng của ngành thể thao và những người làm thể thao nói riêng mà đó là câu chuyện, là bài toán của cả xã hội. Nếu như chúng ta biết kết hợp giữa các nguồn lực từ nhà nước và xã hội, đồng thời có chiến lược đầu tư đúng, đủ và trúng thì việc cải thiện được thành tích thi đấu ở sân chơi châu lục và quốc tế sẽ chỉ là vấn đề thời gian.
Nhà báo Đặng Việt Cường tin tưởng rằng: “Trong năm 2024, Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được phê duyệt. Theo tôi đây là nền tảng quan trọng để Thể thao Việt Nam vươn mình. Nếu triển khai tốt chiến lược này thì Thể thao Việt Nam sẽ có nhiều sự đột phá ở sân chơi Asiad và Olympic”.