Trần Đăng Khoa nhàn đàm về Chuyện bếp và vua bếp

Để Ngài lên Thiên đình mà cưỡi trâu, cưỡi bò hay cưỡi lợn thì thô tục quá. Cưỡi cá vẫn là trang nhã nhất, sang trọng nhất.

                                                            I

Đã là Vua, mà lại làm Vua bếp thì có gì sang trọng, hay ho mà cũng đem ra kể, và lại kể vào đúng dịp Tết Ông Táo trong một tờ báo mạng sang trọng, có tên rất Tây là VOV? Nhầm. Chuyện có thể dở òm, nhưng Vua thì vẫn oai lắm. Vua nào chả là Vua, cho dù Ngài chỉ ngự giữa cung đình gio trấu và nồi niêu xoong chảo và trông mặt mũi ngài lúc nào cũng đen nhẻm. Thuở tôi còn bé, mẹ tôi cứ dặn: "Chớ vội tin cái mẽ bên ngoài. Có người tàn tật, xấu xí, nhưng ẩn trong cái hình dáng méo mó ấy có khi lại là một bà Tiên, ông Phật. Còn khối kẻ trông cứ sáng choang, nhưng biết đâu lại là những tên đồ tể trá hình".

Nhà tôi ở thôn quê. Những căn bếp quê quanh năm thường đen đúa màu bồ hóng, nhưng nó lại là đời sống thật của một gia đình. Người ta bảo, muốn hiểu chủ nhà ra sao, muốn biết họ hạnh phúc hay bất hạnh, sung túc hay nghèo đói, chỉ cần bước vào căn bếp của họ.

Đối với người Việt, cái bếp rất quan trọng. Vì thế mà bếp cũng có Vua đấy. Vua bếp không ngự trị một cách vô hình. Như thế thì có khác gì con ma xó. Chẳng đàng hoàng chút nào. Vương triều của Ngài đã thật thà hiện hình ngay trong cái đám Đầu rau. Mà Đầu rau thì giống nhau lắm. Ông nào cũng gù lưng và đen nhẻm vì cả đời đội nồi, đội xoong chảo và chịu lửa than. Đấy là các ông quan trong triều đình gio trấu. Trông các ngài lủn đủn thế mà thiêng lắm đấy. Chớ có sàm sỡ. Mẹ tôi còn cấm tôi khi nấu cơm, không được lấy que cời gõ lên tấm lưng còng của các Ngài, kẻo các Ngài vật chết.

Vua cũng chung số phận với các quần thần. Ngài gù gù ngồi giữa đám gio trấu, trông xù xì như một con cóc già, nhưng hồn vía lại gửi hết vào hạt cơm, miếng rau, khúc cá, nên bữa cơm quê ngon đến lạ lùng, dù chẳng có sơn hào hải vị gì cả. Vì thế mà người đời luôn nhớ đến Ngài, luôn tôn thờ Ngài. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi năm, Ngài có cả một ngày Tết riêng. Đó là ngày 23 tháng Chạp. Ngày ấy Ngài diện mũ áo, cưỡi cá lên Thiên đình.

Nhưng số Ngài là số vất vả. Làm đến Vua mà vẫn nhem nhuốc. Bởi thế, ngay trong ngày Tết Ông Táo của mình, Ngài vẫn còn phải đội xoong chảo, đội cả nồi... cám lợn. Rồi Ngài cưỡi cá thăng thiên. Người đời sắm cho Ngài cả cá sống lẫn cá chết. Cá sống bơi trong bát nước, đặt trên bàn thờ. Còn cá chết là những con cá giấy, được nhuộm phẩm vàng. Cúng xong rồi hoá. Thế là chúng thành phương tiện, thành Xa Giá đưa Ngài đi. Vua mà.

Người đời kể cúng khéo kén chọn. Để Ngài lên Thiên đình mà cưỡi trâu, cưỡi bò hay cưỡi lợn thì thô tục quá. Cưỡi cá vẫn là trang nhã nhất, sang trọng nhất. Bởi cá có thể vượt Vũ Môn mà hoá rồng. Ngài đi mây về gió. Vua chứ có mèng đâu. 

                                                            II

Người Việt Nam ta khi rời Tổ Quốc, ra sinh sống hoặc kinh doanh ở nước ngoài thì họ mang theo nhiều thứ lắm. Trong trăm thứ hành trang, thế nào cũng có Bàn thờ để cúng tổ tiên. Rồi cùng với bàn thờ là ông Vua bếp. Vua bếp khi xuất ngoại cũng siêu thoát lắm. Ngài không hiện hình một cách phàm tục mà nương náu trong tâm trí, trong khẩu vị của những người ra đi. Chỉ tiếc những căn bếp nước ngoài chẳng có gio trấu cho Ngài trị vì. Thế là Ngài hoá thân vào các món ăn. Bởi thế, người Việt xuất hiện ở đâu, ở đấy sẽ có những cửa hàng bán thức ăn Việt. Chủ cửa hàng có khi còn trương lên những tấm biển rất to, mang tính Hội nhập với khu vực: Siêu thị Đông Nam Á.

Ta có thể thấy những "siêu thị" như thế ở Nga, ở Đức, ở Pháp, ở Mỹ. Trong đó, thượng vàng, hạ cám, thôi thì chẳng còn thiếu thứ gì: Gạo tám Hải Hậu, cốm Làng Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, bưởi Năm roi. Rồi bún, bánh cuốn, rau muống, húng láng, rau thơm, rồi cả thịt chó Nhật Tân. Thời thị trường quả là hay thật. Bữa cơm Việt vẫn toả riêng mùi hương vị quê nhà.

Ông bạn Nga Ivan Novichxki, người ở cùng buồng với tôi cứ tròn mắt kinh ngạc: "Sao các cậu cầu kỳ thế. Chỉ có mỗi bữa ăn mà rục rịch chuẩn bị đến hàng mấy tiếng đồng hồ. Thời gian của một ngày dành cho công việc chẳng còn được bao nhiêu". Thế hoá ra nấu nướng, bếp núc, chẳng phải là công việc đáng quan tâm ư?

Tôi còn biết nói sao với ông bạn vàng mắt xanh mũi lõ? Mà có giải thích cặn kẽ thế nào thì ông bạn ấy cũng không thể hiểu được. Người nước ngoài ăn uống đơn giản. Trừ súp, còn hầu hết đều là món ăn nguội. Những thức ăn gói giấy, mua sẵn ở các cửa hiệu. Dọc đường, còn có những buffet, đó là những quán ăn nhanh, chỉ có bàn ăn, không có ghế. Khách có thể đứng ăn trong chớp nhoáng.

Có người chẳng kịp vào buffet, cứ tranh thủ vừa đi vừa ăn. Đối với người nước ngoài, hình như ăn uống chỉ đơn giản như một biện pháp nạp thêm năng lượng để có sức làm việc. Còn với người Việt thì không phải thế. Ăn uống có khi còn như một nghi lễ. Người ta nhấm nháp món ăn, khoái cảm như thưởng thức nghệ thuật. Chả thế, những học giả từng bỏ ra bao nhiêu tâm sức nghiên cứu, rồi viết những cuốn sách rất dày về các món ăn. Họ gọi đó là Nghệ thuật ẩm thực. Khi miếng ăn, cái uống đã trở thành nghệ thuật thì món ăn không còn là vật chất thô tục nữa. Nó đã hoá vẻ đẹp cao khiết của cõi tinh thần rồi.

Bởi thế, bữa ăn của người Việt thường rất cầu kỳ. Có khi thức ăn đơn giản chỉ có rau và trứng, nhưng vẫn được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Người Việt quen ăn nóng. Mọi thứ phải nóng sốt. Mâm cơm cứ bốc hơi ngùn ngụt. Anh bạn Nga Ivan Novichxki có vẻ khoái lắm. Với vẻ tò mò, anh bày bánh mỳ, mấy khoanh giò và vài lát dưa chuột muối lên bàn cùng ăn tối với tôi. Mâm cơm thành cuộc hội ngộ quốc tế.

"Cậu trông cái bàn ăn có sinh động không? Đúng là hai quốc gia riêng biệt nhé. - Ivan Novichxki cười tủm tỉm - Tớ thì đĩa và dao dĩa. Còn cậu thì bát và đũa. Này, - Anh bạn bỗng nhỏ giọng, gần như là thầm thì - Có phải đũa là biểu tượng của cái gậy chọc lỗ gieo hạt không? Tớ có xem một bộ phim tư liệu khoa học của người Thuỵ Điển về Việt Nam. Trong phim có một anh chàng vừa hát, vừa chọc gậy!". "Không phải chỉ có người Việt dùng đũa - Tôi cười - Đấy chẳng qua cũng chỉ là lối suy luận tầm phào của mấy anh có học!". "Không phải suy luận đâu. Mọi cái tồn tại đều có lý của nó. Cái dĩa trên đĩa tớ kia cậu có biết không? Nó mang dáng của mũi lao phóng thú đấy. Người Nga thích săn bắn lắm. Mà nói chung, người phương Tây đều thích săn bắn cả. Họ vốn quen ăn thịt. Còn các cậu lại thích ăn rau. Đũa thích hợp với việc cặp rau. Chẳng ai dùng dao, dĩa để xiên cắt rau cả".

Ivan nhờ tôi bày cho cậu ta cách cầm đũa. Loắng ngoắng thế nào mà thức ăn tung toé đầy bàn. Thế mà rồi, chỉ hơn tháng sau, cậu ta đã bỏ dao, dĩa. Thay vào đó là đôi đũa gỗ to xù do cậu ta tự chế. Rồi Ivan lần mò đến siêu thị Đông Nam Á. Cậu lễ mễ khuân về bao nhiêu món ăn Việt bắt tôi nấu. Rồi thì chính cậu xông vào bếp. "Món ăn Việt rất ngon. Nó như một thứ a phiến có khả năng gây nghiện. Bây giờ, tớ không ăn được món ăn của Nga nữa. Nhạt lắm. Sau này tớ sẽ mở cửa hàng, bán toàn thức ăn Việt. Hoá ra người Việt rất cuồng nhiệt. Họ luôn thích những cảm giác mạnh. Ngày Tết, ngày cưới thì đốt pháo, tạo những âm thanh vang động, chát chúa. Còn nấu nướng, ăn uống thì cứ phải chế những món ăn có mùi gắt. Khu nhà nào có người Việt là biết ngay. Chỉ đi ngoài hành lang cũng đã ngửi thấy mùi Việt. Đấy, cậu thấy chưa? Mùi Việt nó ở ngay đây này!"

Ivan lấy đầu đũa, gõ coong coong vào chai nước mắm.

Khi tôi trở về Tổ Quốc, trong bữa cơm thuần Việt chia tay, Ivan Novichxki ngậm ngùi bảo: "Thế là ngày mai mày về rồi. Mày về, nhưng vẫn còn một thằng Việt Nam ở lại". Nói rồi, Ivan chọc một ngón tay cái vào bộ ngực đầy lông của mình. Còn một tay, cậu khua đôi đũa lên không khí.

Thế mới biết Vua Bếp ghê thật. Bờ cõi của Ngài thật rộng lớn. Thần dân của Ngài còn có cả những ông Tây, bà Đầm mắt xanh mũi lõ. Thế thì ai dám bảo Ngài chỉ ngự trong gio trấu và triều đình của Ngài toàn những gio trấu?/.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên