14 loại thu nhập doanh nghiệp có thể được miễn thuế
VOV.VN - Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, Bộ đề xuất quy định thu nhập được miễn thuế thực hiện theo quy định tại Điều 4 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Danh mục thu nhập được miễn thuế gồm 14 nhóm thu nhập, tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, nghiên cứu khoa học, giáo dục, xã hội hóa, bảo vệ môi trường, công nghệ mới và các hoạt động vì mục tiêu cộng đồng.
Cụ thể, thu nhập từ hoạt động đánh bắt hải sản; thu nhập của doanh nghiệp từ sản xuất sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản (kể cả trường hợp mua sản phẩm nông sản, thủy sản về chế biến, thuê gia công, nhận gia công chế biến) ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã từ sản xuất sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản (kể cả trường hợp mua sản phẩm nông sản, thủy sản về chế biến, thuê gia công, nhận gia công chế biến), sản xuất muối.

Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Thu nhập từ việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp được miễn thuế gồm: thu nhập từ dịch vụ tưới, tiêu nước, thoát lũ, ngăn lũ, ngăn triều cường, ngăn mặn, rửa mặn, rửa phèn, giữ ngọt; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng; dịch vụ phòng trừ sâu, bệnh cho cây trồng, vật nuôi; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp.
Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, thu nhập từ bán sản phẩm sản xuất thử nghiệm trong thời gian sản xuất thử nghiệm bao gồm cả sản xuất thử nghiệm có kiểm soát theo quy định của pháp luật được miễn thuế tối đa không quá 3 năm.
Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và có số lao động bình quân trong năm từ 20 người trở lên, không bao gồm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản.
Thu nhập từ hoạt động giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề nghiệp dành riêng cho người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đối tượng tệ nạn xã hội.
Thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn, mua cổ phần, liên doanh, liên kết kinh tế với doanh nghiệp trong nước, sau khi bên nhận góp vốn, liên doanh, liên kết đã nộp thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả trường hợp bên nhận góp vốn, bên phát hành cổ phiếu, bên liên doanh, liên kết được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam; khoản tài trợ nhận được từ doanh nghiệp không có mối quan hệ liên kết, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để sử dụng cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; khoản hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước và từ Quỹ hỗ trợ đầu tư do Chính phủ thành lập; khoản bồi thường của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật để cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải, chuyển nhượng tín chỉ các-bon lần đầu sau khi phát hành của doanh nghiệp được cấp chứng chỉ giảm phát thải, tín chỉ các-bon; thu nhập từ tiền lãi trái phiếu xanh; thu nhập từ chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi phát hành.
Thu nhập (bao gồm cả lãi tiền gửi ngân hàng, lãi trái phiếu Chính phủ, lãi tín phiếu kho bạc) từ thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao trong các trường hợp.
Phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó; phần thu nhập hình thành quỹ chung không chia, tài sản chung không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Hợp tác xã.
Thu nhập từ chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ chức, cá nhân ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo quy định.
Đề xuất miễn thuế 2 năm với doanh nghiệp chuyển đổi
Trong dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề xuất miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm liên tục đối với doanh nghiệp thành lập mới từ hộ kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh. Thời gian miễn thuế được tính từ năm đầu tiên phát sinh thu nhập chịu thuế.
Chính sách này áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc diện doanh thu nhỏ và vừa, cụ thể là doanh nghiệp có doanh thu năm không quá 50 tỉ đồng, tương ứng với mức thuế suất 15% hoặc 17% theo quy định tại dự thảo Nghị định.
Trường hợp doanh nghiệp không phát sinh thu nhập chịu thuế trong ba năm đầu kể từ năm có doanh thu, thời gian miễn thuế sẽ được tính từ năm thứ tư. Với doanh nghiệp có kỳ tính thuế đầu tiên dưới 12 tháng, có thể lựa chọn miễn thuế ngay trong kỳ đó hoặc đăng ký áp dụng từ kỳ tính thuế tiếp theo. Trong trường hợp đăng ký áp dụng từ kỳ sau, doanh nghiệp phải kê khai và nộp thuế theo quy định đối với kỳ đầu tiên.
Theo dự thảo, để được miễn thuế, hộ hoặc cá nhân kinh doanh phải có thời gian hoạt động liên tục tối thiểu 12 tháng tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Đồng thời, doanh nghiệp thành lập mới phải là doanh nghiệp đăng ký kinh doanh lần đầu, không thuộc trường hợp thành lập lại, tức không có người đại diện theo pháp luật, thành viên hợp danh hoặc người có số vốn góp cao nhất từng giữ các vai trò tương tự tại doanh nghiệp khác đang hoạt động hoặc đã giải thể chưa quá 12 tháng.
Sau thời gian miễn thuế, nếu doanh nghiệp đang thực hiện dự án thuộc ngành, nghề, địa bàn ưu đãi thì vẫn tiếp tục được áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo các điều khoản khác trong Nghị định.