Hài hoà với thiên nhiên để vượt lên biến đổi khí hậu

VOV.VN - Biến đổi khí hậu chính là cơ hội để tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đổi ngôi vị "hàng đầu thế giới" từ sản lượng sang giá trị...

Để ứng phó với biến đổi khí hậu, không thể nóng vội đưa ra các chính sách nhằm can thiệp vào các triệu chứng bề mặt thay vì những nguyên nhân sâu xa; không thể vì những kết quả tốt trong ngắn hạn mà bỏ qua sự bất ổn trong dài hạn; nếu không, càng ngày, nhu cầu can thiệp theo triệu chứng càng nhiều hơn.

Phải tính toán một cách khôn ngoan, từng bước sống hài hòa với thiên nhiên

Theo đó, ĐBSCL cần được rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội theo hướng tiết kiệm nước ngọt, chung sống với hạn mặn, khai thác nước lợ và nước mặn như một tài nguyên. BĐKH chính là cơ hội để tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đổi ngôi vị "hàng đầu thế giới" từ sản lượng sang giá trị, đảm bảo phát triển bền vững và giữ được an ninh lương thực.

Phường Khánh Hòa, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng có diện tích nuôi cá lóc nhiều nhất thị xã với trên 60 ha, chủ yếu ở các khóm Châu Khánh, Trà Niên và Huỳnh Thu. Trong cao điểm của đợt hạn mặn năm ngoái, nước ngọt trên các kênh rạch cạn kiệt, nước sông cũng bị nhiễm mặn nên ao nuôi cá lóc nào cũng đều khoan ít nhất một giếng nước.

Anh Huỳnh Công Đắc, người trông coi 3 ha ao cá lóc cho biết, ông chủ của anh khoan 4 giếng với độ sâu trên 100 m để nuôi cá lóc, bơm thêm nguồn nước ngầm để pha cho hạ độ mặn xuống giúp cá phát triển tốt.

Trong đợt khảo sát mới đây tại thị xã Vĩnh Châu, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng phát hiện gần 90 giếng khoan không phép với độ sâu từ 100-200m/giếng. Nguồn nước đều bị khai thác vượt ngưỡng quy định trên 10m3/ngày đêm.

Ông Đồng Thống Nhất, Trưởng phòng Tài nguyên nước và Khí tượng Thủy văn, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh này thừa nhận, không thể nắm hết hiện trạng khoan giếng nước ngầm cho nuôi trồng thuỷ sản.

Ứng phó với hạn mặn, người Sóc Trăng vội vàng khoan giếng, hút nước tưới cho lúa, hoa màu; hòa với nước sông, làm giảm độ mặn để cứu cho được những ao tôm, cá – trị giá bằng cả gia tài của gia đình. Tuy vậy, tổng diện tích tôm, lúa, cây ăn trái, hoa màu của Sóc Trăng vẫn bị thiệt hại hơn 31 nghìn ha. Hàng nghìn tỷ đồng bị cuốn theo nước biển, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng chục nghìn hộ dân. Và cũng chính cách ứng xử trước mắt này lại là nguy cơ có thể nhấn chìm cả gia tài của nhiều gia đình hơn nữa trong nay mai.

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng Nguyễn Văn Thể lo lắng: ĐBSCL bị lún là do khai thác vô tội vạ; nước mặn xâm nhập vô. Nước ngầm chỉ lợi trước mắt, lâu dài rất nguy hiểm. Vùng ven biển không có nước ngọt mà nguồn nước ngầm bị ô nhiễm thì người dân biết làm sao để sống?!

Khô kiệt ảnh hưởng trực tiếp đến hàng triệu hộ dân vùng ĐBSCL
Mùa khô năm 2015-2016, tổng thiệt hại do hạn mặn ở ĐBSCL khoảng 7.900 tỷ đồng với trên 400.000 ha lúa, 8.100 ha hoa màu, 28.500 ha cây ăn quả, 82.000 ha ao tôm bị ảnh hưởng và trên 390.000 hộ gia đình thiếu nước sinh hoạt. 6 tháng đầu năm 2016, ngành nông nghiệp tăng trưởng âm. Những nguyên nhân đã được chỉ ra, đó là do tác động của El Nino nên mùa khô kéo dài, mùa mưa đến muộn và kết thúc sớm. Dòng chảy thượng lưu sông Mekong bị thiếu hụt, mực nước thấp nhất trong 90 năm qua, không còn khả năng đẩy mặn. BĐKH làm nước biển dâng cao, kết hợp với triều cường nên mặn xuất hiện sớm hơn gần 2 tháng so với cùng kỳ, xâm nhập sâu về phía thượng lưu, nơi xa nhất hơn 90 km.

Tuy nhiên, hội chứng “kẻ thù ở bên ngoài” là một cách nhìn không hệ thống.
Những vấn đề của ngày hôm nay còn phát sinh từ các giải pháp của ngày hôm qua.

Sau năm 1975, Việt Nam bắt tay vào quy hoạch khai thác ĐBSCL. Các vấn đề cần giải quyết, đó là phèn, chua và mặn nhằm khai thác 3 tiểu vùng đất rộng người thưa: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau.

Thách thức khi đó đối với đồng bằng, đặc biệt 3 vùng này, là mùa mưa, lũ ngập mênh mông; mùa khô, nước thiếu trầm trọng và xì phèn. Thêm vào đó, nước mặn theo triều xâm nhập sâu vào đồng bằng. 

GS. TSKH Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, nguyên Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X, XI cho rằng, chúng ta vượt qua khá thành công thách thức này, đã thắng thiên nhiên khi xóa được phèn ở Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Ở nước ta không có “Vạn lý trường thành” nhưng ĐBSCL có “Vạn lý đường kênh” cho phép ém phèn để canh tác lúa, thau chua và rửa mặn.

Nhà nước và Nhân dân xây dựng rất nhiều cống ngăn mặn nhằm giữ ngọt và “ngọt hóa” những vùng bị nhiễm mặn; qua đó, tăng được diện tích canh tác lúa hai vụ. Những năm 1990, tiếp tục tăng trưởng theo chiều rộng, nhiều tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang… bao đê vượt lũ làm lúa vụ 3 với tổng diện tích trên 300.000 ha. Với khoảng 7 triệu tấn lúa năm 1986 thì nay tổng sản lượng lúa của vùng này đạt trên 25 triệu tấn/năm, mang về khoảng 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mặt hàng này.

Nước mặn đã xâm nhập trên sông Hậu. Lần đầu tiên Cần Thơ bị mặn xâm nhập
Tuy nhiên, theo GS. TSKH Nguyễn Ngọc Trân, cái giá phải trả cho nỗ lực đẩy mạnh sản xuất lúa gạo, làm tròn nhiệm vụ giữ an ninh lương thực quốc gia là diện tích rừng tràm biến mất nhanh chóng trong Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ. Các vùng trũng bị “chắt” cạn nước để tăng vụ, làm giảm diện tích trữ ngọt, gia tăng xâm nhập mặn; độ phì nhiêu và các nguồn lợi thủy sản suy kiệt; môi trường suy thoái... Ở bên ngoài đê bao, chế độ thủy văn bị xáo trộn vĩnh viễn một cách tiêu cực.
Con đường vượt lên BĐKH ở ĐBSCL là phải lợi dụng thiên nhiên để sống
Tương tự, trong thập niên 1980, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL còn khiêm tốn. Nay kim ngạch xuất khẩu thủy sản của đồng bằng chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước về mặt hàng này. Quy hoạch diện tích nuôi tôm cho 5 năm đã được các tỉnh ven biển hoàn thành chóng vánh chỉ trong 1-2 năm. Động lực nằm ở giá cánh kéo giữa lúa và tôm.

Tuy nhiên, cái giá phải trả là rừng ngập mặn phải nhường lại cho các vuông tôm. Theo Viện Điều tra và Quy hoạch rừng, từ năm 1983 đến năm 1999, diện tích rừng ngập mặn ĐBSCL đã giảm gần 80%. Hệ quả là, chúng ta đạt mức sống cao hơn nhưng bấp bênh; Thu nhập tăng lên nhưng không bền vững.

Theo những kịch bản nước biển dâng và kết quả phân bố xâm nhập mặn tương ứng đến cuối thể kỷ này, nếu mực nước dâng lên 100 cm, mặn có thể xâm nhập sâu trên sông Hậu 15 km; trên sông Tiền khoảng 6 km. Khi xét đến lún nền, mặn tại biển Đông có thể xâm nhập sâu thêm từ 3-16 km trên các sông chính. Nếu xét cả 3 yếu tố lún nền, nước biển dâng, giảm dòng chảy thượng lưu 30% thì mặn xâm nhập khá sâu ở khu vực ven biển Đông, ranh giới mặn 4 phần nghìn trên sông Hậu có thể lên tới kênh Ô Môn – Xà No.

Khi nước biển dâng lên 75 cm, ranh giới mặn vẫn vào sâu thêm khoảng 20 km so với hiện nay. Khi đó, nguồn nước sẽ không đủ phục vụ cho các ngành kinh tế. Vào năm 2050, khi mực nước biển tăng lên 30 cm, diện tích đất sử dụng lớn nhất có thể bị ảnh hưởng ở độ mặn 4 phần nghìn là trên 1 triệu 600 nghìn ha, chiếm 41% diện tích toàn ĐBSCL.

Thay vì lấy lúa làm gốc, chúng ta lấy thủy sản làm gốc, đặc biệt là con tôm
Tuy nhiên, những mối đe doạ này lại chính là cơ hội để ngành nông nghiệp nước ta đổi ngôi vị “hàng đầu thế giới” từ sản lượng sang giá trị.

GS. TS Tăng Đức Thắng, Phó Giám đốc Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam phân tích: "Hiện nay, chúng ta thiên về giải pháp công trình để hạn chế hơn là chấp nhận nó. Cái này cần phải điều chỉnh. Mặn cũng là một lợi thế, chứ đâu phải có tác hại không. Nếu chỉ trồng lúa thì tác hại thật nhưng ta tiếp cận theo cách khác thì chẳng phải hại. Cần phải kiểm soát được nó, mà kiểm soát mức độ chứ không phải bằng mọi giá. Xu hướng bây giờ là phải thích ứng và giảm thiểu. Thiên nhiên không thể chống được."

TS. Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, con đường vượt lên BĐKH ở ĐBSCL là phải lợi dụng thiên nhiên để sống.

"Chúng ta đã phá vỡ cân bằng thiên nhiên đi khá nhiều. Cho nên mô hình phải xen kẽ, chấp nhận cái vá víu, nối kết những sai lầm của chúng ta với những điều kiện mà trước đây chưa có được. Tuy nhiên, chúng ta không nên đương đầu chống lại tự nhiên. Những dự án "đảo hải di sơn”, “dời non lấp biển" là những giải pháp tốn kém nhất và kém vững bền nhất. Trong điều kiện nợ công như thế này, chúng ta không nên đầu tư vào giải pháp như thế. Biến đổi khí hậu là một quá trình, các thách thức sẽ đến từ từ. Chúng ta có thể xây dựng một chiến lược vững bền, đầu tư chắc chắn, không hối tiếc trong tương lai", TS. Đặng Kim Sơn nhấn mạnh.

Sau khi khảo sát ĐBSCL, khu vực có quy mô, diện tích, dân cư tương tự, đoàn công tác của chính phủ Hà Lan khuyến nghị rằng, với một nước nghèo và giàu tự nhiên như Việt Nam, phải tính toán một cách khôn ngoan, từng bước sống hài hòa với thiên nhiên. Lời khuyên đó hợp với lòng dân, với kinh nghiệm của chính chúng ta trong lịch sử, với bài học quốc tế và với xu thế biến đổi khí hậu đang rất phức tạp như hiện nay.

Ở Cà Mau, mô hình sản xuất một vụ lúa, một vụ tôm đạt hiệu quả cao là thực tế không thể bàn cãi. Nhiều năm trở lại đây, giá 1 kg tôm rẻ nhất cũng bằng 2 giạ (hơn 40 kg) lúa. Mặt khác, mô hình sản xuất lúa luân canh với tôm có tính cộng sinh. Khi cắt lúa, khúc rạ ngã xuống, sinh ra thức ăn cho tôm. Sản phẩm phụ của lúa là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho nuôi tôm. Ngược lại, phụ phẩm của nuôi tôm là nguồn phân hữu cơ để cây lúa tốt hơn. Hơn nữa, khi sản xuất luân canh, chuyển đổi từ hệ sinh thái mặn sang ngọt và ngược lại, các mầm bệnh bị tiêu diệt.

Ông Huỳnh Thanh Tân, Giám đốc Công ty Cổ phần Chế biến và Dịch vụ Thủy sản Cà Mau cho rằng, nước mặn hoàn toàn có thể biến thành lợi thế trong sản xuất nông nghiệp.

Theo TS. Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thay vì lấy lúa làm gốc, chúng ta lấy thủy sản làm gốc, đặc biệt là con tôm. Ở thượng nguồn, người nông dân đã khá thành công với mô hình lúa – tôm, lúa - cá, nhất là tôm càng xanh; hạ nguồn thì lúa - tôm. Thời gian qua, hơn 100 ngàn ha ở ĐBSCl đã được bà con chuyển đổi sang mô hình lúa - tôm; sản xuất 2 vụ tôm, một vụ lúa; lúc đó, tôm là chính, lúa là phụ...

Thu nhập của người nông dân rất cao. Mức độ thích nghi với môi trường ổn định hơn. Thách thức được biến thành cơ hội. Người nông dân bằng những trải nghiệm thực tiễn của mình đã biết cách sử dụng thiên nhiên uyển chuyển, hòa hợp với con người, chứ không phải cưỡng chế, đương đầu với nó. Đôi khi, người nông dân đã quyết định trái với quy hoạch nhưng những sáng tạo của họ đã được chứng minh là đúng đắn. Bài học từ Khoán chui đến Khoán 10 vẫn còn nguyên giá trị.

Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở ĐBSCL gấp gần 8 lần so với Thái Lan nhưng sản lượng chỉ bằng 93% và trở thành ngành có nhiều rủi ro nhất đối với nông dân. Từ bài học của Thái Lan, ngoài tập trung vào các giải pháp quản lý, khoa học công nghệ, rất cần quy hoạch một số vùng chuyên canh, tập trung và nuôi theo hướng công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ này, phải tạo được phân ranh mặn ngọt rõ ràng, xây dựng đường cấp và thoát nước riêng biệt, chủ động trong việc cấp nước mặn và ngọt, tiến tới chấm dứt khai thác nước ngầm ở vùng nuôi trồng thuỷ sản – nguyên nhân gây sụt lún đất ở đồng bằng.

Cần đẩy nhanh tiến độ dự án trồng rừng ven biển

Theo GS. TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đã đến lúc, phải tính đến việc hình thành tuyến đường phát triển kinh tế xã hội để tạo ra ranh giới mặn ngọt và là vùng đệm để bảo vệ an toàn cho dân cư trong trường hợp đê biển có sự cố do nước biển dâng vì bão lớn, siêu bão hay sóng thần. Phạm vi giữa tuyến đường và đê biển chủ yếu dành cho nuôi trồng thuỷ sản theo hướng công nghiệp, trồng rừng ngập mặn và bố trí đường cấp nước và thoát nước riêng biệt.

Theo đó, căn cứ vào yêu cầu về diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện tại, vị trí tuyến đường này được đề xuất cách tuyến đê biển từ 5-6,6 km. Khi đó, tổng diện tích có thể nuôi trồng thuỷ sản tập trung khoảng 350.000 ha. Nếu nhu cầu diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở các địa phương lớn hơn, tuyến đường có thể dịch sâu hơn vào trong đất liền; tuy nhiên, không nên vượt quá 10 km.

Ngày 26 và 27/9, tại Cần Thơ sẽ diễn ra Hội nghị của Chính phủ về chuyển đổi mô hình phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long gắn với những giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây sẽ là "Hội nghị Diên Hồng" cho Đồng bằng sông Cửu Long nhằm đặt mục tiêu đưa được quyết sách mới có tính hệ thống, chiến lược, đột phá về quan điểm phát triển cho khu vực có gần 20 triệu dân này.

Trên cơ sở kết quả của Hội nghị, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết về chuyển đổi mô hình phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu./.

Nghèo hơn vì canh tác lúa vụ 3?

VOV.VN - Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp huyện Tháp Mười, canh tác 3 vụ không mang lại lợi nhuận cao hơn do vụ 3 kéo giảm năng suất, sản lượng 2 vụ trước.
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Nông nghiệp đổi ngôi vị “hàng đầu thế giới” từ sản lượng sang giá trị
Nông nghiệp đổi ngôi vị “hàng đầu thế giới” từ sản lượng sang giá trị

VOV.VN - Nhiều loại trái cây Việt (thanh long, nhãn, dưa hấu, xoài)… đã chinh phục được các thị trường khó tính như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Australia, Hàn Quốc…

Nông nghiệp đổi ngôi vị “hàng đầu thế giới” từ sản lượng sang giá trị

Nông nghiệp đổi ngôi vị “hàng đầu thế giới” từ sản lượng sang giá trị

VOV.VN - Nhiều loại trái cây Việt (thanh long, nhãn, dưa hấu, xoài)… đã chinh phục được các thị trường khó tính như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Australia, Hàn Quốc…

Nghèo hơn vì canh tác lúa vụ 3?
Nghèo hơn vì canh tác lúa vụ 3?

VOV.VN - Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp huyện Tháp Mười, canh tác 3 vụ không mang lại lợi nhuận cao hơn do vụ 3 kéo giảm năng suất, sản lượng 2 vụ trước.

Nghèo hơn vì canh tác lúa vụ 3?

Nghèo hơn vì canh tác lúa vụ 3?

VOV.VN - Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp huyện Tháp Mười, canh tác 3 vụ không mang lại lợi nhuận cao hơn do vụ 3 kéo giảm năng suất, sản lượng 2 vụ trước.

Mô hình canh tác lúa - tôm cần hướng đến tính bền vững
Mô hình canh tác lúa - tôm cần hướng đến tính bền vững

VOV.VN - Việc khai thác và phát huy sản xuất lúa – tôm tại ĐBSCL cần được tiếp tục thực hiện với những định hướng rõ rệt hơn.

Mô hình canh tác lúa - tôm cần hướng đến tính bền vững

Mô hình canh tác lúa - tôm cần hướng đến tính bền vững

VOV.VN - Việc khai thác và phát huy sản xuất lúa – tôm tại ĐBSCL cần được tiếp tục thực hiện với những định hướng rõ rệt hơn.

Sản xuất nông nghiệp đang chuyển dần từ lượng sang giá trị
Sản xuất nông nghiệp đang chuyển dần từ lượng sang giá trị

VOV.VN - Sản xuất vụ Đông trong ngành nông nghiệp đang chuyển dần từ “lượng sang giá trị” hướng đến nâng cao giá trị gia tăng.

Sản xuất nông nghiệp đang chuyển dần từ lượng sang giá trị

Sản xuất nông nghiệp đang chuyển dần từ lượng sang giá trị

VOV.VN - Sản xuất vụ Đông trong ngành nông nghiệp đang chuyển dần từ “lượng sang giá trị” hướng đến nâng cao giá trị gia tăng.

45.000 hộ dân bị ảnh hưởng của BĐKH sẽ được hỗ trợ
45.000 hộ dân bị ảnh hưởng của BĐKH sẽ được hỗ trợ

VOV.VN - Đây là chương trình do MTTQ Việt Nam phối hợp với 8 cơ quan, tổ chức thành viên thực hiện nhằm hỗ trợ bà con khắc phục hậu quả của BĐKH

45.000 hộ dân bị ảnh hưởng của BĐKH sẽ được hỗ trợ

45.000 hộ dân bị ảnh hưởng của BĐKH sẽ được hỗ trợ

VOV.VN - Đây là chương trình do MTTQ Việt Nam phối hợp với 8 cơ quan, tổ chức thành viên thực hiện nhằm hỗ trợ bà con khắc phục hậu quả của BĐKH