Tổng cục Thuế phản hồi về việc tính tiền chậm nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
VOV.VN - Tổng cục Thuế vừa có phản hồi về thông tin liên quan đến quy định về tính tiền chậm nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp trong năm tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
Thời gian gần đây, báo chí có phản ảnh về nội dung liên quan đến các quy định về kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ. Trong đó, có một số ý kiến cho rằng Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định trường hợp người nộp thuế nộp thiếu số thuế phải tạm nộp 3 quý đầu năm (75%) thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu là tận thu, chưa thúc đẩy sản xuất kinh doanh cuối năm cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, Tổng cục Thuế cho rằng, quy định này là nhằm hạn chế chiếm dụng ngân sách.
Theo đại diện Tổng cục Thuế, thực hiện chủ trương cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, Tổng cục Thuế đã báo cáo Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 1/10/2014 và trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014. Thông tư này đã bãi bỏ quy định về kê khai thuế thu nhập doanh nghiệp tạm tính hàng quý và kê khai quyết toán theo năm, thay bằng quy định tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hàng quý và kê khai quyết toán theo năm.
Theo đó, doanh nghiệp căn cứ vào số thuế thu nhập doanh nghiệp của năm trước và dự kiến kết quả sản xuất kinh doanh trong năm để xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp các quý trong năm sát với thực tế kết quả sản xuất kinh doanh.
Quy định về tính tiền chậm nộp đối với việc thực hiện tạm nộp thuế được xác định theo thời điểm hạn nộp thuế quý bốn của doanh nghiệp, theo đó trường hợp tổng số thuế tạm nộp trong kỳ tính thuế thấp hơn số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán từ 20% trở lên thì doanh nghiệp phải nộp tiền chậm nộp đối với phần chênh lệch từ 20% trở lên giữa số thuế tạm nộp với số thuế phải nộp theo quyết toán tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế quý bốn của doanh nghiệp đến ngày thực nộp số thuế còn thiếu so với số quyết toán.
Tuy nhiên, từ khi thực hiện Nghị định số 91/2014/NĐ-CP, thực tế triển khai cho thấy, bên cạnh các doanh nghiệp đã tuân thủ tốt quy định tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, còn nhiều doanh nghiệp không tuân thủ và lợi dụng quy định về tính tiền chậm nộp này, không thực hiện tạm nộp hàng quý mà để dồn đến thời hạn nộp thuế của quý 4 (thông thường vào ngày 30/1 năm sau) mới nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
Số thu thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh phải nộp trong năm ngân sách trước bị chiếm dụng và nộp vào năm ngân sách sau gây ảnh hưởng đến cân đối ngân sách nhà nước hàng năm. Đồng thời, không đảm bảo sự công bằng trong việc thực thi pháp luật thuế giữa các doanh nghiệp tuân thủ tốt và các doanh nghiệp không tuân thủ.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Chính phủ đã quy định về tính tiền chậm nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp trong năm, kê khai quyết toán cuối năm đã được sửa đổi tại điểm b khoản 6 Điều 8 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ. Theo đó, trường hợp người nộp thuế nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 3 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu so với số thuế phải nộp theo quyết toán kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 3 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
Tổng cục Thuế khẳng định, việc quy định như trên xuất phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều có phương án và kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, và sẽ hoàn toàn chủ động trong việc xác định/ước tính kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm để thực hiện quy định tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệptheo quy định.
Nghĩa vụ phải nộp chính thức sẽ được xác định khi doanh nghiệp quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệptại thời điểm kết thúc năm tính thuế. Các trường hợp doanh nghiệp có kết quả tăng bất thường về sản xuất kinh doanh trong quý 4 mà doanh nghiệp không dự kiến được trước không phải là trường hợp phổ biến.
Về hiệu lực của quy định trên, Tổng cục Thuế sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền để có hướng dẫn cụ thể theo kỳ tính thuế./.