EU đứng trước thử thách lớn khi Mỹ gia tăng áp lực thuế
VOV.VN - Căng thẳng thương mại Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục gia tăng với những động thái cứng rắn từ cả hai bên. Kể từ hôm nay (14/7), mức thuế quan của EU bắt đầu có hiệu lực đối với hàng hóa của Mỹ để trả đũa việc Mỹ áp thuế đối với thép và nhôm.
Trước đó, cuối tuần qua, Mỹ cũng đã đưa ra thông báo về việc áp thuế nhập khẩu 30% đối với hàng hóa từ EU từ ngày 1/8 tới, nếu không đạt được thỏa thuận thương mại toàn diện.
Việc Mỹ gia tăng áp lực thuế sẽ đặt ra những thách thức lớn nào cho EU và khối này sẽ có những biện pháp đối phó ra sao để vừa bảo vệ được lợi ích của mình, nhưng vẫn tránh được một chiến thương mại leo thang?

Tác động từ mức thuế mới của Mỹ đối với châu Âu
Với mức thuế nhập khẩu mới công bố của Tổng thống Mỹ Donald Trump, châu Âu sẽ phải chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Theo Ủy ban châu Âu, quan hệ thương mại Mỹ-EU chiếm 30% thương mại toàn cầu, với tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ trao đổi đạt gần 2.000 tỷ USD vào năm 2024, chủ yếu là các mặt hàng ô tô, máy móc, dược phẩm, thời trang và nông sản. Việc áp dụng mức thuế 30% sẽ làm suy yếu nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của các công ty châu Âu, đặc biệt là gây thiệt hại cho Italia và Đức, hai quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ thị trường Mỹ.
Các chuyên gia cho rằng ngành dược phẩm châu Âu sẽ là ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất bởi dược phẩm là mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất của EU sang Mỹ, chiếm 22,5% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2024 (theo Eurostat) và hiện đang được miễn thuế hải quan. Và với tổng kim ngạch xuất khẩu của EU sang Mỹ đạt mức 626 tỷ USD trong năm 2024, thiệt hại cho ngành dược phẩm được ước tính vào khoảng 42 tỷ USD. Các quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất là Pháp, Đức, Tây Ban Nha và một số quốc gia Bắc Âu.
Tiếp theo đó là ngành sản xuất ô tô truyền thống. Mỹ mà một trong những “thị trường trọng điểm” của ngành công nghiệp ô tô châu Âu, nơi đã xuất khẩu gần 750.000 xe sang Washington vào năm 2024, trị giá 45 tỷ USD, theo số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô châu Âu (ACEA). Mức thuế mới sẽ khiến ô tô châu Âu trở nên đắt đỏ hơn, giảm số lượng tiêu thụ khi không cạnh tranh được với các hãng sản xuất ô tô bản địa. Thiệt hại hàng năm được ước tính vào khoảng 10 tỷ USD. Đức sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng thứ 3 là ngành công nghiệp hàng không. Trước đó, ngành này đã phải vật lộn chịu thêm mức phí khoảng 10% khi Washington quyết định áp thuế 25% đối với các sản phẩm nhôm và thép nhập khẩu từ châu Âu, những nguyên liệu chủ yếu để sản xuất máy bay. Các công ty sản xuất máy bay của châu Âu như Airbus đã kiến nghị lên Ủy ban châu Âu và đặt hy vọng vào các cuộc đàm phán thuế quan song phương. Tuy nhiên, công bố mới của ông Trump đã hoàn toàn dập tắt kỳ vọng này.
Ngoài ra, dù ít được nhắc đến nhưng những mặt hàng xa xỉ của châu Âu cũng sẽ chịu ảnh hưởng ở mức đáng báo động. Các công ty lớn của châu Âu như tập đoàn LVMH hay Hermes đã sẵn sàng đón nhận mức thuế mới được Mỹ công bố hồi tháng 4 vừa qua bằng cách nâng giá các sản phẩm của mình tại đây. CEO của tập đoàn LVMH, Bernard Arnault đã kêu gọi các nhà lãnh đạo châu Âu giải quyết căng thẳng thương mại với Mỹ một cách “thân thiện” thậm chí còn nói rằng ông “ủng hộ” một “khu vực thương mại tự do” với Washington. Thế nhưng mức thuế 30% sẽ là một câu chuyện khác. Kể cả khi các hãng này có nâng giá bán thì lợi nhuận và doanh thu cũng sẽ giảm mạnh, gần như buộc các mặt hàng này phải rút khỏi Mỹ hoặc phải chuyển toàn bộ dây chuyền sản xuất tới đây.
Mỹ phẩm và một số mặt hàng nông sản của châu Âu cũng sẽ bị ảnh hưởng nhưng ở những mức độ khác nhau. Các quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất là Pháp và Italia. Theo số liệu dự tính, thiệt hại tiềm tàng của các ngành này đối với châu Âu có thể lên tới 12 tỷ USD mỗi năm.
Chưa kể đến, quyết định của Tổng thống Mỹ cũng có thể tác động ngay lập tức đến thị trường tài chính châu Âu. Các nhà phân tích dự đoán phản ứng tiêu cực sẽ xảy ra ngay từ đầu phiên giao dịch ngày hôm nay, đặc biệt là đối với cổ phiếu trong lĩnh vực ô tô và thời trang, cả hai đều phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu sang Mỹ.
Biện pháp đối phó của EU
Ttrên thực tế, EU có rất nhiều biện pháp để đáp trả các quyết định về mức thuế quan mới của Mỹ. Một trong số đó là việc áp đặt thuế quan tương đương cho các sản phẩm xuất khẩu của Washington, đặc biệt nhắm vào các ngành công nghiệp chủ chốt của Mỹ.
Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp tốt dành cho EU, bởi điều này tương đương với việc bắt buộc người dân châu Âu phải mua hàng đắt hơn, đánh thuế chính người dân của mình, làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp châu Âu có hợp tác với Mỹ và quan trọng hơn cả là làm gia tăng lạm phát. Gia tăng lạm phát là cụm từ đang rất nhạy cảm với châu Âu, nhất là trong bối cảnh EU vừa trải qua cuộc khủng hoảng lạm phát cách đây không lâu và nền kinh tế vẫn chưa kịp phục hồi sau vòng suy thoái.
Ngoài ra, châu Âu cũng có thể khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nếu họ chứng minh được Washington đang vị phạm các quy tắc và chuẩn mực thương mại của EU cũng như đòi Mỹ bồi thường. Thêm một lần nữa, đây cũng không phải là biện pháp tối ưu cho EU bởi các quy trình kiện tụng sẽ mất rất nhiều thời gian và các yêu cầu bồi thường có thể sẽ mất hàng thập kỷ để được áp dụng. Khi đó, cho dù số tiền bồi thường có là bao nhiêu đi chăng nữa và kể cả trong trường hợp Mỹ đồng ý quyết toán thì các hệ quả mà mức thuế mới của Mỹ gây ra cho nền kinh tế châu Âu đã trở nên không thể cứu vãn.
Châu Âu cũng còn một biện pháp được các lãnh đạo châu Âu ví như vũ khí tối thượng, đó là áp dụng « Công cụ chống áp bức » (ACI), một cơ chế được EU thông qua năm 2021 nhằm bảo vệ các nước thành viên trước hành vi « áp bức » về kinh tế từ bên thứ ba. ACI cho phép Khối 27 xem xét áp đặt hàng rào thuế quan, hạn chế nhập khẩu, cho đến hạn chế đầu tư và khả năng tiếp cận thị trường Liên minh. Với cơ chế này, EU sẽ gần như « khai tử » các mặt hàng của Mỹ nhưng điều tương tự cũng sẽ xảy ra đối với các mặt hàng châu Âu. Đây có lẽ là điều mà lục địa già không muốn xảy ra nhất bởi khi đó sẽ không có một bên nào được hưởng lợi từ những biện pháp cực đoan này.
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng châu Âu có thể chuyển đổi mục tiêu xuất khẩu sang những quốc gia khác bằng cách thiết lập các thỏa thuận thương mại thế hệ mới. Khi đó Brussels sẽ giảm độ phụ thuộc vào Washington. Điều này cũng sẽ khiến Mỹ cảm thấy lo lắng và tự động điều chỉnh mức thuế quan để « giữ chân » đối tác thương mại lớn nhất của mình. Chưa kể đến biện pháp này còn giúp EU mở ra những thị trường mới, duy trì tính cân bằng và ổn định cho nên kinh tế của lục địa già. Vấn đề lớn nhất của biện pháp này đó là thời gian. Trong ngắn hạn, EU sẽ khó có thể đạt được các thỏa thuận đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của châu Âu như những quy chuẩn về xuất sứ, về chất lượng hay đơn giản hơn là đạt được mức thuế quan phù hợp.
Mỹ và EU trước bờ vực thương chiến?
Đến thời điểm hiện tại, bất chấp những tuyên bố về các biện pháp đáp trả thuế quan Mỹ của Ủy ban châu Âu, nhiều ý kiến các nước thành viên vẫn nghiêng về biện pháp giải quyết căng thẳng thương mại với Mỹ một cách « thân thiện ».
Trên thực tế, các doanh nghiệp châu Âu đều đã sẵn sàng chấp nhận việc Mỹ gia tăng thuế ở một mức độ nhất định. Họ lấy tính ổn định lâu dài để bù cho các chi phí phát sinh bởi nhiều hàng hóa châu Âu đã hình thành được thói quen tiêu dùng của người dân Mỹ. Các biện pháp cực đoan sẽ khiến các mặt hàng châu Âu ít được tiếp cận hơn với nguời tiêu dùng Bắc Mỹ và làm họ thay đổi thói quen sinh hoạt. Điều này sẽ gây ảnh hưởng cho châu Âu trong thời gian dài sắp tới bởi thói quen không được hình thành trong ngày một ngày hai.
Thậm chí, nhiều lãnh đạo châu Âu cũng đã nhất trí với việc nhận « thiệt thòi » về phần mình để giữ lại một đối tác thương mại hàng đầu của châu Âu và quan trọng hơn cả là giữ lại một đồng minh lâu đời của châu Âu trong quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, điều mà các lãnh đạo EU lo lắng đó là việc Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ không bằng lòng với những thành quả về thuế quan và tiếp tục có những « yêu cầu » khác ngày một khó lường và khó chấp nhận hơn.
Giới chuyên gia nhận định trong thời gian tới, châu Âu sẽ cố gắng để « hòa đàm » với Mỹ và kéo dài tối đa các biện pháp miễn trừ thuế trước khi có được thỏa thuận an toàn với Washington. Chiến tranh thương mại sẽ là điều cuối cùng mà lục địa già muốn đối diện. Dù vậy, châu Âu vẫn sẽ phải cứng rắn và thống nhất hơn trong các cuộc đàm phán với Mỹ thay vì những nhóm lợi ích nhỏ lẻ như những gì chúng ta được chứng kiến trong thời gian vừa qua.
Ngoài ra, châu Âu hiện cũng đang phải đối mặt với một vấn đề hết sức nan giải, đó là hệ quả do mức thuế quan mà Washington áp đặt lên các nước còn lại của thế giới. Mức thuế cao sẽ khiến các mặt hàng của các nước này khó có thể tiêu thụ ở Mỹ. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa. Những đất nước có trữ lượng hàng hóa xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ sẽ buộc phải chuyển hướng và nhắm vào các thị trường tiềm năng khác. Các thị trường châu Á thường sẽ không phải là mục tiêu chính bởi bản thân các thị trường này cũng đã gần như đạt đến giới hạn tiêu thụ. Thêm vào đó, các nước châu Á cũng chỉ đem lại mức lợi nhuận trung bình, thường dùng số lượng để bù lại cho chất lượng.
Như vậy, các nước châu Âu sẽ trở thành thị trường tiềm năng cho các mặt hàng dư thừa. Và khi nguồn cung trở nên dồi dào, người dân lục địa già có thể sẽ được hưởng lợi giá cả thấp trong một thời gian ngắn do sự cạnh tranh khốc liệt. Nhưng về dài hạn, các doanh nghiệp châu Âu, với chi phí nhân công và nguyên vật liệu cùng các loại thuế phí cao sẽ dần mất khả năng cạnh tranh.
Khi đó, EU sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng với tình hình kinh tế trì trệ do không bán được sản phẩm, doanh nghiệp nội địa buộc phải giảm bớt nhân sự hoặc giảm lương khiến thu nhập người dân thụt giảm. Và thu nhập thấp đồng nghĩa với việc ưu tiên các sản phẩm giá rẻ. Đây sẽ là một vòng tuần hoàn ác tính nhấn chìm châu Âu. Trước tình hình đó, việc duy trì một mối quan hệ thương mại « an toàn » với Mỹ cũng là ưu tiên hàng đầu của các lãnh đạo châu Âu.