Dân số giảm kỷ lục là một trong những thách thức chính với Nga
VOV.VN - Trong cuộc họp báo mới đây, Tổng thống Vladimir Putin tỏ ra rất lo lắng về tình trạng suy giảm dân số của nước Nga và những tác động của vấn đề này tới sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ lụy từ suy giảm dân số
Không chỉ trong cuộc họp báo thường niên mới đây, tại nhiều diễn đàn khác, Tổng thống Vladimir Putin đề cập đến tình trạng suy giảm dân số của nước Nga. Nhiều người còn cho rằng Nga đang đối mặt với “một cuộc khủng hoảng dân số”. Như Tổng thống Vladimir Putin từng nhấn mạnh rằng, dân số 146 triệu người là không đủ cho một quốc gia có lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới.
Sự suy giảm dân số của Nga thể hiện ở cả 2 chỉ số: sự giảm tuổi thọ, sự gia tăng tỷ lệ tử vong, trong khi tỷ lệ sinh thấp. Trong giai đoạn từ tháng 12/2020 đến tháng 11/2021, tỷ lệ tử vong đã vượt quá 2,4 triệu người và dân số giảm hơn 800.000 người, tăng hơn 72%, so với cùng kỳ năm 2020.
Sự suy giảm dân số ở Nga vào năm 2020 tăng hơn gấp đôi, từ 316.200 người vào năm 2019 lên 688.700 người. Các chỉ số này đang ở mức cao nhất kể từ năm 2005, khi đó mức suy giảm dân số tự nhiên là 846.600 người. Tỷ lệ tử vong cao chủ yếu do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.
Bộ Y tế công bố dữ liệu của Cơ quan thống kê Nga (Rosstat), từ tháng 10/2020 đến tháng 9/2021, có hơn 406.000 người tử vong với chẩn đoán do COVID-19. Bên cạnh đó, Nga đối mặt với thực tế già hóa của dân số gia tăng. Nếu vào đầu năm 2020 có 32,8 triệu công dân trên 60 tuổi thì đến đầu năm 2021 là 33,5 triệu người. Đó là chưa kể tỷ lệ tử vong ở người cao tuổi năm 2020 đã tăng 20%.
Giải quyết vấn đề khủng hoảng dân cư đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong chính sách đối nội mà Nga phải đối mặt. Bởi vấn đề này là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Dân số Nga giảm kỷ lục đã trở thành một trong những thách thức chính đối với Nga, kéo theo những hậu quả vô cùng bất lợi cho nền kinh tế trong dài hạn. Dân số giảm chắc chắn dẫn đến thiếu hụt nguồn lực lao động, giảm năng suất lao động. Để bù đắp Nga nới lỏng chính sách nhập cư, tuy nhiên hầu hết người di cư là lao động phổ thông, không có trình độ cao. Nga cũng không thể nhập cư ồ ạt bởi dẫn đến hệ quả bản sắc dân tộc bị mai một.
Một trong những hậu quả của suy giảm dân số là giảm sự cạnh tranh về giáo dục ở các khu vực của Nga. Chất lượng đầu vào có phần giảm xuống. Gần đây ở Nga có xu hướng bằng lòng với giáo dục trung cấp nghề thay vì lựa chọn các cơ sở giáo dục đại học. Đó là những rủi ro về văn hóa - xã hội.
Sự sụt giảm dân số dẫn đến nhu cầu trong nước trên nhiều lĩnh vực từ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng đến nhu cầu bất động sản… đều giảm, kéo tốc độ xây dựng và phát triển của tất cả các lĩnh vực liên quan của nền kinh tế giảm. Trong điều kiện đó, Nga khó có thể đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn mức trung bình thế giới và trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Nhiều nguyên nhân khiến tỉ lệ sinh thấp
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng dân số là tỷ lệ sinh. Tỷ lệ sinh Nga đang ở mức thấp. Trong 10 tháng đầu năm 2020, Nga có 1,068 triệu trẻ em được sinh ra, ít hơn khoảng 60.000 so với cùng kỳ năm 2019. Trong 10 tháng đầu năm 2021, khoảng 1,05 triệu trẻ em được sinh ra ở Nga, thấp hơn 1,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Tỷ lệ sinh thấp tại Nga do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất, đó là tỷ lệ phụ nữ Nga ở độ tuổi sinh đẻ rất thấp. Số lượng phụ nữ trong độ tuổi 20-30 ở Nga đang giảm dần. Đây là hậu quả của cuộc khủng hoảng nhân khẩu học những năm 90 do tình trạng nghèo đói, thiếu thốn sau khi Liên xô sụp đổ.
Thứ hai, đó là xu hướng không muốn sinh con. Theo các cuộc thăm dò khác nhau, gần một nửa số người Nga từ chối sinh con và lý do phổ biến nhất là vấn đề kinh tế. Một phần là do thu nhập hộ gia đình ở Nga sụt giảm trong thời gian dài và thiếu triển vọng tăng trưởng hoặc thậm chí phục hồi như năm 2013.
Thứ ba, yếu tố khác ảnh hưởng tỷ lệ sinh là xu hướng sinh con muộn và trì hoãn việc sinh con đầu lòng. Tuổi sinh con đầu lòng của các bà mẹ Nga hiện nay là từ độ tuổi 25–34, điều này làm giảm khả năng sinh con thứ hai và thứ ba. Một trong những lý do khác là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khiến nhiều người ngại sinh con bởi các rủi ro hiện hữu.
Thứ tư, ngày có càng nhiều người trẻ có tham vọng về vật chất và sự nghiệp thay vì dành thời gian cho việc sinh con và nuôi dạy con cái.
Chi hàng tỷ USD để giải quyết khủng hoảng
Để đối phó cuộc khủng hoảng nhân khẩu học, Nga đưa ra nhiều biện pháp và chính sách trong ngắn và dài hạn. Năm 2019, Nga đã khởi động một dự án quốc gia về "Nhân khẩu học" kéo dài 5 năm. Các mục tiêu chính của dự án là tăng tuổi thọ, cải thiện sức khỏe của người dân và hỗ trợ tỷ lệ sinh và việc làm cho phụ nữ có con. Nga dự kiến chi từ ngân sách liên bang khoảng 1,6 nghìn tỷ rúp (2,3 tỷ USD) cho dự án này.
Nga cũng tăng các khoản trợ cấp cho các gia đình khi có thành viên mới. Từ 01/01/2021, khoản trợ cấp tăng 3,7%, lên tới 484.000 rúp (gần 7.000 USD) cho sinh con đầu lòng hoặc nhận con nuôi thứ nhất (năm 2020 là gần 467 nghìn rúp). Khi sinh con hoặc nhận con nuôi thứ hai, số tiền trợ cấp tăng lên hơn 22.000 USD. Số tiền trợ cấp cũng tăng lên khi sinh các con tiếp theo. Nhờ các biện pháp hỗ trợ này, kể từ năm 2007 đến nay có 2,5 - 3 triệu trẻ em là con thứ được sinh ra.
Bên cạnh các biện pháp trên, Nga cũng có chính sách thu hút người nhập cư. Bộ Nội vụ Nga cho biết số lượng công dân nước ngoài đăng ký tại Liên bang Nga đã tăng lên. Năm 2020, có hơn 8,3 triệu người nhập cư. Mặc dù ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, song năm 2021 số người nhập cư tiếp tục tăng thêm 2,3 triệu người và đạt hơn 10,6 triệu người. Số lượng công dân nước ngoài được nhập quốc tịch Nga cũng tăng lên, từ hơn 504.000 người trong 10 tháng năm 2020 lên hơn 609.000 người cùng kỳ năm 2021.
Cùng với đó, chính phủ Nga triển khai chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao mức sống, phúc lợi xã hội cho người dân, như miễn học phí cho trẻ em là công dân Nga đến năm 18 tuổi, tiếp cận dịch vụ y tế miễn phí, xây dựng mới và nâng cấp cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non, cũng như nhiều các biện pháp hỗ trợ khác./.