Tăng trưởng lương ở Việt Nam cao hơn tăng năng suất lao động
(VOV) -Trong khi tăng trưởng lương toàn cầu tăng với tốc độ thấp hơn tăng năng suất lao động, ở Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại.
Khác biệt lớn trong tăng trưởng lương ở các khu vực
Theo Báo cáo Lương Toàn cầu 2012 – 2013, được Tổ chức Lao động Quốc tế ILO công bố ngày 7/12 tại Thụy Sỹ, tăng trưởng lương trên toàn thế giới ở mức thấp hơn nhiều so với thời điểm trước khủng hoàng. Mức lương tháng trung bình trên thế giới tăng 1,2% năm 2011, giảm 3% so với năm 2007 và 2,1% so với 2010.
Tổng Giám đốc ILO Guy Ryder cho biết: Ở rất nhiều quốc gia, cuộc khủng hoảng đã và đang để lại tác động nặng nề đối với lương. Tuy nhiên sự tác động này không đồng đều.
Báo cáo chỉ ra sự khác biệt lớn giữa các nước khác nhau và các khu vực khác nhau; lương nhìn chung tăng trưởng mạnh hơn ở những khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Trong khi tăng trưởng lương suy giảm ở các nền kinh tế phát triển, nơi dự báo năm 2012, mức tăng trưởng bằng 0, thì bức tranh ở khu vực châu Mỹ Latin, vùng Caribe, châu Phi và nhất là châu Á lại là một màu sáng tích cực.
Chênh lệc mức lương theo giới ngày càng gia tăng ở Việt Nam (Ảnh: KT) |
Ở Việt Nam, tiền lương danh nghĩa trung bình tăng 26,8% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2010. Ngay cả khi tính đến lạm phát vốn vẫn ở mức cao, tiền lương thực tế vẫn tăng 12,6% hàng năm.
Cũng giống Việt Nam, tăng trưởng lương ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương duy trì ở mức cao, 6,3% năm 2010, thể hiện khả năng chống chịu khủng hoảng của các nền kinh tế trong khu vực.
Tuy nhiên, mức lương chênh lệch đáng kể giữa các quốc gia và khu vực khác nhau. Theo báo cáo của ILO, một công nhân làm việc trong lĩnh vực chế tạo ở Philippines mang về nhà 1,4 USD cho mỗi giờ làm việc, so với gần 5,5 USD ở Brazil, 13 USD ở Hy Lạp, 23,3 USD ở Mỹ và gần 35 USD ở Đan Mạch.
Năng suất lao động và lương
Trong khi báo cáo chỉ ra rằng, tăng trưởng lương toàn cầu tăng với tốc độ thấp hơn tăng năng suất lao động, bức tranh ở Việt Nam lại hoàn toàn tương phản. Ở các nền kinh tế phát triển, tăng trưởng năng suất lao động tăng hơn gấp đôi so với tiền lương kể từ năm 1999. Ngay cả ở Trung Quốc – nơi lương tăng khoảng gấp 3 lần trong thập niên vừa qua – người lao động được hưởng ít hơn trước bởi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng nhanh hơn so với tổng số lương trả cho họ.
Xu hướng toàn cầu này dẫn tới một sự thay đổi trong phân bổ thu nhập, nghĩa là người lao động được hưởng ít hơn từ thành quả lao động của chính họ, trong khi chủ sở hữu vốn được lợi nhiều hơn.
Tuy nhiên, trái với tình hình chung trên toàn cầu, tốc độ tăng trưởng tiền lương danh nghĩa và thực tế ở Việt Nam lại cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động ít nhất 3 lần.
Một trong những lý do lý giải xu hướng này chính là cũng giống nhiều quốc gia đang phát triển khác, mức lương trung bình chỉ thể hiện mức thu nhập của người lao động được hưởng lương (ở Việt Nam, nhóm này chỉ chiếm 33,8% lực lượng lao động). Trong khi đó, năng suất lao động lại tính đến GDP của tất cả những người có việc làm, bao gồm cả những người tự kinh doanh.
Theo chuyên gia cao cấp về quan hệ lao động của ILO Việt Nam, Yoon Youngmo, Chính phủ đã và đang sử dụng lương tối thiểu như một công cụ chính sách để dần nâng mức sàn tiền lương trong những năm vừa qua (mỗi năm tăng hơn 20%).
Tuy nhiên, theo ông Youngmo, tốc độ tăng lương và mức độ phức tạp ngày một gia tăng của nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc, lương tối thiểu không còn là công cụ hữu ích như trước đây để áp đặt xu hướng tiền lương cho người lao động được hưởng lương trong nền kinh tế chính thức.
Theo Giám đốc Quốc gia ILO tại Việt Nam, Gyorgy Sziraczki, Việt Nam phải đối mặt với những thử thách khác phía trước, để đất nước được hưởng lợi đồng đều từ mức tăng trưởng lương.
Ông cho biết: Các chính sách cần tập trung vào gần 60% lực lượng lao động - hiện vẫn thuộc bộ phận kinh tế phi chính thức với năng suất lao động thấp, ít được bảo vệ và thu nhập thấp.
Ông Gyorgy Sziraczki cũng cảnh báo về chênh lệch mức lương theo giới ngày càng gia tăng ở Việt Nam. Theo báo cáo của ILO, trong khi mức chênh lệch lương theo giới đã giảm xuống trong thời kỳ khủng hoảng vừa qua ở hầu khắp các nước trên thế giới, Việt Nam nằm trong nhóm một số ít quốc gia có mức chênh lệch gia tăng – gần 2% trong giai đoạn 2008-2011, so với 1999-2007./.