Đại sứ Việt Nam tại Indonesia: Diễn biến ở Biển Đông đáng lo ngại
VOV.VN- Những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có thể gây bất ổn ở một khu vực có tầm quan trọng địa chiến lược hàng đầu trên thế giới.
Đây là nhận định của Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Hoàng Anh Tuấn trong bài viết của ông được tờ Jakarta Post đăng tải ngày 25/1.
VOV xin giới thiệu toàn văn bài viết này:
Thế giới bước vào năm 2016 với nhiều thách thức đáng lo ngại với sự đối đầu bất ngờ giữa Iran và Saudi Arabia, việc Triều Tiên thử bom H, cũng như các vụ đánh bom khủng bố tại Thổ Nhĩ Kỳ, Burkina Faso, Indonesia và Pakistan.
Bên cạnh những lo ngại về an ninh này còn có những hành động chưa từng có của Trung Quốc ở Biển Đông, điều có thể dẫn đến sự bất ổn ở một khu vực có tầm quan trọng địa chiến lược hàng đầu trên thế giới. Sau khi hoàn thành việc xây dựng các đảo nhân tạo trên các rặng san hô và bãi đá – những nơi mà Trung Quốc chiếm giữ trái phép, từ ngày 1/1/2016, Trung Quốc bắt đầu tiến hành bay thử máy bay dân sự ra đảo Chữ Thập của Việt Nam. Hành động này thể hiện rõ hơn ý định bành trướng của Bắc Kinh ở một khu vực có ý nghĩa quan trọng đối với giao thương hàng hải ở Đông Nam Á và thế giới.
Nghiêm trọng hơn, theo Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, các chuyến bay của Trung Quốc đã bay qua vùng kiểm soát bay thành phố Hồ Chí Minh (FIR). Cục Hàng không dân dụng Trung Quốc (CAAC) đã không thông báo kế hoach và mục đích bay cho phía Việt Nam, cho thấy rằng Bắc Kinh không có ý định tuân thủ các quy tắc và luật lệ thông thường. Từ 1-8/1/ 2016, Trung Quốc đã tiến hành 46 chuyến bay trong vùng FIR của Việt Nam quản lý. Điều này không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn vi phạm các quy định như Công ước Chicago 1944 về Hàng không dân dụng quốc tế và các Phụ lục liên quan đến Quy định của Hàng không, đặc biệt là phụ lục 2 và Phụ lục 11, do đó đe dọa an toàn của chuyến bay quốc tế ở khu vực này. Điều đó cho thấy Trung Quốc dường như đang quay lưng lại với các thỏa thuận quốc tế.
Rõ ràng, hành động của Trung Quốc là trái với tuyên bố của nước này rằng việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông không ảnh hưởng đến tự do và an toàn hàng hải, hàng không ở Biển Đông và hòa bình, ổn định ở Biển Đông vẫn được đảm bảo. Thử tưởng tượng những hậu quả của một vụ va chạm máy ở Biển Đông và những tác động của nó đến an toàn, thương mại và an ninh.
Tệ hơn nữa, trong khi hành vi vi phạm của Trung Quốc ở vùng quản lý bay của thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục thì từ ngày 16/1/2016, Trung Quốc lại di chuyển giàn khoan HD-981 đến khu vực giữa thềm lục địa ở miền Trung Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Điều này gợi nhớ đến vụ việc giàn khoan HD-981 của Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây ra những tổn hại cho mối quan hệ Việt – Trung và dẫn đến bất ổn anh ninh cho toàn bộ khu vực.
Các hoạt động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông cho thấy Bắc Kinh đang sẵn sàng mở rộng quy mô hoạt động trong khu vực và có những bước đi ngày càng nguy hiểm, trái ngược với những tuyên bố của họ về mong muốn có các giải pháp hòa bình, hợp lý và thông qua đàm phán đối với các vấn đề trên. Trung Quốc từ lâu đã thừa nhận rằng Hải Nam là điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ ít nhất thế kỷ 17. Tại Hội nghị San Francisco vào tháng 9/1951, 50 trong số 51 quốc gia tham dự đã không phản đối khi Thủ tướng Trần Văn Hữu của Nhà nước Việt Nam khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, yêu sách của Trung Quốc liên quan đến hai quần đảo này đã bi 46 trong số 51 nước tham gia bác bỏ hoàn toàn. Bên cạnh đó, Tuyên bố Cairo năm 1943 cũng như Hiệp định Postdam năm 1945 không có một lời nào đề cập đến sự quản lý của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.
Năm 1957 và 1974, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đã tấn công và sau đó chiếm đóng phần phía Tây và tiếp đến là phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến chớp nhoáng để chiếm đảo Gạc Ma (hay còn gọi là Johnson Reef) và một số đảo đá và bãi đá khác của Việt Nam vào năm 1988. Kể từ thời điểm đó, Trung Quốc tiếp tục hiện diện và chiếm đóng cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong một nỗ lực nhằm thống trị toàn bộ Biển Đông. Với những thực tế này, khó có thể phủ nhận nhận thực tế Trung Quốc đang tìm cách bành trướng ở Biển Đông.
Việc xây dựng và bồi đắp các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa đã đi ngược lại với tinh thần của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là nhấn mạnh đến việc duy trì nguyên trạng và không khuyến khích hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình. Hơn nữa, những hành động của Trung Quốc giải thích lý do tại sao các cuộc đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) mất nhiều thời gian đến thế và chưa đạt được những thỏa thuận mang tính thực chất. Với cách ứng xử đó của Trung Quốc, có lý do để tin rằng Bắc Kinh sẽ tiếp tục việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông và cuối cùng khi Trung Quốc ký COC với ASEAN thì họ đã ở một vi thế được củng cố hơn và khi đó Bộ quy tắc này sẽ không tính các lợi ích ưu tiên của ASEAN.
Hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam va Trung Quốc và DOC 2002. Sau chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc vào tháng 11/2015 và chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam vào tháng 12/2015, Trung Quốc đã đồng ý kiềm chế không làm phức tạp thêm tình hình. Các hoạt động hiện tại của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với những lời hứa đó.
Những gì mà Đại sứ của Trung Quốc tại ASEAN, ông Xu Bu, viết trong tờ Jakarta Post vào ngày 14/1/2016 trong một bài báo có tựa đề "Duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông” cho thấy rằng khu vực này cần giải quyết quyết vấn đề vượt ra ngoài lời nói. Những việc làm cụ thể sẽ giúp giảm bớt những thách thức để Biển Đông sẽ là biểu trưng cho hòa bình và ổn định trong khu vực ASEAN.
Đặc biệt, Trung Quốc cần phải dừng tất cả các công trình xây dựng các hòn đảo nhân tạo và Trung Quốc phải chấm dứt hành vi làm thay đổi hiện trạng và quân sự hóa Biển Đông.
Trung Quốc phải cam kết duy trì hiện trạng và nhanh chóng chấm dứt việc xây dựng một sân bay tại đá Chữ Thập (Fiery Cross) của Việt Nam vì điều này đe dọa chủ quyền của Việt Nam, hòa bình, ổn định trong khu vực và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.
Trung Quốc cần phải thực hiện đầy đủ DOC, có thiện chí đạt được một thỏa thuận COC với ASEAN và cam kết giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Đây là ba bước đầu tiên, nhưng là những bước quan trọng để hướng tới việc đảm bảo hòa bình, ổn định và an ninh lâu dài cho khu vực Đông Nam Á, và tất nhiên cũng phù hợp với lợi ích lâu dài của Trung Quốc nữa./.