Còn tư tưởng không muốn thoái vốn doanh nghiệp nhà nước ở lĩnh vực “màu mỡ”
VOV.VN - “DNNN vẫn còn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn. Còn tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại”.
Chậm...
Vấn đề này được Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nhấn mạnh trong báo cáo về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, trong đó có tình hình thực hiện thoái vốn doanh nghiệp nhà nước.
Người đứng đầu ngành tài chính cho biết, lũy kế giai đoạn 2016 - 2020 tổng giá trị thoái là 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng. Từ năm 2021 đến 5 tháng đầu năm 2022, đã thoái vốn tại 38 doanh nghiệp với giá trị 2.047 tỷ đồng, thu về 6.582 tỷ đồng.
Chỉ rõ các tồn tại, hạn chế, ông Hồ Đức Phớc cho rằng việc nghiên cứu, xây dựng ban hành, sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật do còn nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan, đơn vị liên quan (như liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá trị văn hoá lịch sử…) dẫn đến kéo dài thời gian, làm giảm tính hiệu quả, kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn.
Đa số các tập đoàn, tổng công ty, DNNN chưa chủ động triển khai các quy định của nhà nước, đến khi phải thực hiện cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất, đã ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa.
Kết quả cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN, chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần còn chậm, không đạt được kế hoạch đề ra. Số thu từ cổ phần hóa DNNN, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp không đảm bảo kế hoạch thu NSNN (giai đoạn 2016-2020, tổng số tiền đã nộp NSNN là 234.387 tỷ đồng đạt 93,6% kế hoạch, năm 2021 tổng số tiền đã nộp NSNN đạt 2,5% kế hoạch).
Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung danh mục và kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn chậm, chưa đảm bảo tính kịp thời còn hình thức, thiếu khả thi, chưa sát với thực tế.
Ngoài ra, nhiều cơ sở nhà, đất của doanh nghiệp nhà nước chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất; chưa giải quyết được một số tồn tại, vướng mắc các dự án thua lỗ, kém hiệu quả; tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn cao.
Tư duy, nhận thức chưa thống nhất dẫn tới lúng túng
Nguyên nhân khách quan được cho là do doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn có quy mô lớn, sở hữu nhiều đất đai. Dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến tình hình thị trường tài chính, chứng khoán trong nước và khu vực, ảnh hưởng đến công tác xác định giá trị doanh nghiệp, lập phương án sử dụng đất để thực hiện cổ phần hóa, triển khai công tác đấu giá phần vốn nhà nước theo quy định. Việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn cũng phụ thuộc vào tình hình thị trường, lựa chọn thời điểm bán cổ phần hợp lý để đem lại hiệu quả, đảm bảo tính khả thi.
Bên cạnh đó, phần lớn lĩnh vực hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập không hấp dẫn các nhà đầu tư do mức sinh lời thấp, thị trường hạn chế; chủ yếu có quy mô nhỏ. Một số đơn vị có công nợ tồn đọng nhiều năm không đối chiếu, thu hồi được. Rất nhiều đơn vị cơ sở vật chất yếu kém, không có trụ sở riêng mà nằm trong trụ sở của cơ quan chủ quản.
Còn về nguyên nhân chủ quan, ông Hồ Đức Phớc cho rằng tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí của DNNN chưa thống nhất dẫn tới lúng túng trong hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chậm được tổng kết thực tiễn, kết luận để có thể cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước
“DNNN vẫn còn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn. Còn tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại” – ông Hồ Đức Phớc nói./.