Lỗ hổng pháp lý “giết mòn” tập đoàn kinh tế Nhà nước

Thể chế pháp lý cho tập đoàn kinh tế Nhà nước đang có nhiều bất cập, có thể tạo ra khả năng sai phạm, thất thoát tài sản của Nhà nước.

Theo đại biểu Lê Thị Nga (đoàn Thái Nguyên), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đóng góp của các tập đoàn kinh tế Nhà nước thời gian qua là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, từ đổ vỡ của một số tập đoàn đã cho thấy, rõ ràng thể chế pháp lý đang có nhiều bất cập, thể chế đó có thể tạo ra khả năng sai phạm, thất thoát tài sản của nhà nước không chỉ riêng ở các đơn vị đã đổ vỡ hoặc đã được thanh tra.

Thí điểm trên phạm vi quá rộng

Đại biểu Lê Thị Nga cho biết, tất cả 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước đều đang trong giai đoạn thí điểm. Về nguyên tắc thí điểm thì có thể thành công hay thất bại nên phạm vi thí điểm hẹp, sau một thời gian phải tổng kết, nếu khẳng định thành công thì mới triển khai trên diện rộng. Tuy nhiên, ngay từ đầu chúng ta đã thí điểm trên phạm vi rất rộng, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu, xương sống của nền kinh tế.

Những năm từ 2005-2007, liên tiếp 8 tập đoàn được thành lập. Năm 2009-2010, khi Vinashin bắt đầu đổ vỡ trong khi chưa có tổng kết thí điểm, chúng ta lại tiếp tục lập thêm 4 tập đoàn mới. Cho đến nay, Chính phủ vẫn chưa tổng kết toàn diện về tập đoàn kinh tế Nhà nước, mà mới chỉ sơ kết vào tháng 11/2011.

Nếu chúng ta tiếp tục thành lập tập đoàn mới khi chưa khẳng định sự thành công của mô hình này, thì khó mà tránh khỏi những va vấp của các tập đoàn đi trước.

Đại biểu Lê Thị Nga đề nghị Chính phủ tạm dừng ngay việc thành lập mới tập đoàn kinh tế Nhà nước

Quy định sơ sài, gây chồng chéo

Về hành lang pháp lý, theo đại biểu Lê Thị Nga, tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ- con và các hình thức khác. Hiện nay hành lang pháp lý riêng cho các tập đoàn còn khá sơ sài, về cơ bản chưa được điều chỉnh ở tầm luật, chưa đảm bảo cơ sở pháp lý một cách đầy đủ cho hoạt động của tập đoàn.

Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ vỏn vẹn 4 điều quy định sơ sài về nhóm công ty và giao Chính phủ quy định chi tiết về tập đoàn, nhưng mãi đến tháng 11/2009, khi 8 tập đoàn hoạt động được 3 đến 4 năm và ngay tại thời điểm Quốc hội đang giám sát về tập đoàn, thì Chính phủ mới có Nghị định 101 về thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế Nhà nước.

Mặc dù đã từng bước được điều chỉnh nhưng đến nay khung pháp lý vẫn còn nhiều sơ hở. Cụ thể: Về phương thức hình thành, các tập đoàn đều thành lập theo phương thức hành chính, bằng Quyết định của Thủ tướng, trong một chừng mực nào đó, còn thể hiện mong muốn chủ quan của cơ quan quản lý, chưa phản ánh đầy đủ nhu cầu tự thân của liên kết tập trung kinh tế theo quy luật nên gặp nhiều khó khăn, nhất là quy mô, số lượng tăng quá nhanh, vượt quá trình độ, khả năng quản trị, quản lý của công ty mẹ.

Ngoài ra, theo đại biểu Lê Thị Nga, chúng ta chưa tách bạch triệt để chức năng chủ sở hữu Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước. Có trường hợp dùng quyền quản lý Nhà nước để thực thi quyền sở hữu như quyết định đầu tư, mua bán tài sản. Ngược lại, theo phản ánh, một số tập đoàn còn được giao nhiệm vụ mà về bản chất là nhiệm vụ của quản lý Nhà nước. Ví dụ như trực tiếp đề xuất hoặc soạn thảo quy hoặch kế hoạch phát triển ngành…

Điều này dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu minh bạch, tạo ra sự thiếu công bằng trong hoạch định chính sách giữa các loại hình doanh nghiệp, các lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực có vị thế độc quyền, có lợi thế trong khai thác tài nguyên. Đây chính là lỗ hổng pháp lý tạo ra khả năng dẫn đến sự chi phối chính sách và lợi ích nhóm.

Phân tán và kém hiệu quả

Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ đã quy định rõ thẩm quyền của Chính phủ, của Bộ trong đại diện chủ sở hữu và quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi Chính phủ cụ thể hóa đối với tập đoàn thì lại tỏ ra rất phân tán, kém hiệu quả và đặc biệt là sự phân công trách nhiệm giữa các chủ thể chưa hợp lý.

Điều này lý giải cho việc vì sao những vụ việc sai phạm kéo dài vừa qua được phát hiện rất chậm, khi phát hiện thì hậu quả đã rất nặng nề và rất khó quy trách nhiệm.

“Nghiên cứu kỹ các phát biểu của các Bộ trưởng Giao thông Vận tải, Kế hoạch- Đầu tư, Tài chính khi Quốc hội khóa 12 chất vấn về Vinashin thì thấy rất rõ điều này. Không thể nói thể chế pháp lý về tập đoàn kinh tế Nhà nước là đã thành công, một khi có thất thoát lớn xảy ra mà những bộ quản lý chuyên ngành như Giao thông Vận tải, Kế hoạch- Đầu tư, Tài chính có thể viện dẫn văn bản để không phải chịu trách nhiệm. Việc để thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng ở EVN cho đến nay câu trả lời về trách nhiệm cũng đang bỏ lửng. Tái cơ cấu thể chế phải đặc biệt lưu ý đến vấn đề này”, đại biểu nhấn mạnh.

Khó kiểm soát biểu hiện độc quyền

Đại biểu Lê Thị Nga cho rằng, các tập đoàn kinh tế Nhà nước được hưởng vị thế độc quyền, được ưu đãi đặc biệt nên hiệu quả hoạt động lẽ ra phải rất khả quan. Nhưng chúng ta chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá chính xác hiệu quả của các tập đoàn, phần nào do vị thế độc quyền đưa lại, phần nào do tài nguyên và các ưu đãi đưa lại và nhất là trong điều kiện tập đoàn thực hiện cả những nhiệm vụ xã hội mà chưa lượng hóa được chi phí bù đắp. Điều đó đã tạo ra cách đánh giá khác nhau về hiệu quả thực chất của tập đoàn và tạo cớ để biện minh cho những yếu kém.

“Đã có chuyện 2 Bộ trưởng mâu thuẫn nhau trong việc đánh giá lỗ- lãi của kinh doanh xăng dầu, làm cho người dân và đại biểu rất băn khoăn, và chính điều này tạo ra sự thiếu đồng thuận của xã hội trong việc điều chỉnh giá. Bởi sự chưa tin tưởng vào tính minh bạch của các yếu tố hình thành giá”, đại biểu nói.

Khung pháp lý hình thành, kể cả Luật Cạnh tranh và thực tế tổ chức thi hành đã không kiểm soát được những biểu hiện độc quyền và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của một số tập đoàn, đặc biệt là xăng và điện.

Với vị thế chưa tương xứng và thiếu độc lập của mình, cơ quan quản lý cạnh tranh dường như đứng ngoài cuộc trong việc bảo vệ người tiêu dùng trước áp lực lợi ích riêng của các tập đoàn, nhất là các tập đoàn có quan hệ lệ thuộc với Bộ Công Thương.

Về đầu tư ngoài ngành, sơ hở pháp lý đầu tiên phải kể đến là trong các quyết định thành lập 8 tập đoàn đầu tiên, chúng ta đã cho phép mỗi tập đoàn kinh doanh đa ngành, chồng chéo nhau nhưng không phân biệt ngành chính, ngành phụ, cộng với thực tiễn quản lý hạn chế, chấn chỉnh chậm đã dẫn đến tình trạng đầu tư ngoài ngành tràn lan vào những lĩnh vực rủi ro, hiệu quả thấp, thất thoát vốn. Khi bị chấn chỉnh thì thoái vốn chậm và có biểu hiện đổ cho các lý do khách quan.

Con người và thể chế

Về công tác nhân sự, đại biểu Lê Thị Nga cho rằng, các quy định hiện hành và thực tiễn chưa đưa lại cách tốt nhất để chọn ra được những nhà quản trị doanh nghiệp giỏi, nhà kinh doanh chuyên nghiệp.

Theo đại biểu, cần khắc phục xu hướng đưa những công chức quản lý Nhà nước không có kiến thức và năng lực kinh doanh sang làm lãnh đạo doanh nghiệp. Và ngược lại, phải có cơ chế để lãnh đạo doanh nghiệp buộc phải gánh tránh nhiệm cá nhân với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, không tạo lối thoát cho họ dễ giao, chuyển sang khu vực quản lý Nhà nước nếu đã để lại thất bại và thua lỗ.

Còn về hoàn thiện thể chế, theo đại biểu còn quá chậm. Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 và các quy định của Chính phủ đã mở rất rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp, đặc biệt là quyền quyết định đầu tư của Hội đồng thành viên rất lớn.

Tuy nhiên, những quy định về giám sát đầu tư, giám sát tài chính, giám sát hoạt động của chủ sở hữu lại chưa theo kịp, đặc biệt là chưa được luật hóa và quá chậm ban hành theo yêu cầu của Nghị quyết giám sát số 42, Quốc hội khóa 12. Việc chậm trễ này cũng làm cho những thiếu sót tại những tập đoàn không những chậm được khắc phục mà có mặt còn trầm trọng thêm.

“Chính phủ cần báo cáo Quốc hội rõ lý do chậm ban hành các nghị định, nhất là nghị định về giám sát tài chính, về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu”, đại biểu đề nghị.

Đâu là giải pháp?

Đại biểu Lê Thị Nga đề nghị Chính phủ tạm dừng ngay việc thành lập mới tập đoàn kinh tế Nhà nước, kiểm kê lại vốn, tài sản Nhà nước tại tất cả các tập đoàn xem còn bao nhiêu, lỗ và thất thoát bao nhiêu, phương án xử lý.

Cùng với đó là làm rõ trách nhiệm cá nhân và báo cáo Quốc hội theo khoản 3, Điều 168 Luật Doanh nghiệp; tổng kết toàn diện việc thí điểm tập đoàn kinh tế Nhà nước, qua đó đánh giá đúng cả những mặt tích cực, cả những hạn chế để xã hội có cái nhìn khách quan, không vì khuyết điểm của một vài tập đoàn mà phủ nhận tất cả những thành tích đã đạt được.

Đại biểu nhấn mạnh, nếu khẳng định việc thí điểm đã thành công thì cần ban hành văn bản ở tầm Quốc hội cho tổ chức và hoạt động của tập đoàn kinh tế Nhà nước, trong đó cần khắc phục những hạn chế. Quốc hội cần đặc biệt lưu ý đến những kiến nghị của diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012.

“Đề nghị Quốc hội đặt tập đoàn kinh tế Nhà nước dưới sự giám sát đặc biệt của Quốc hội, đôn đốc Chính phủ thực hiện nghiêm các yêu cầu sau giám sát; tăng cường công cụ kiểm toán để nâng cao hiệu quả giám sát và đưa dự án Luật Kinh doanh vốn Nhà nước vào trong chương trình chính thức của năm 2013. Vì càng để chậm ngày nào thì càng khó quản lý số vốn tại các doanh nghiệp ngày đó”, đại biểu nêu ý kiến./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên