Thủ tướng: Liên kết đủ mạnh để phát triển vùng Đồng bằng Sông Hồng
VOV.VN - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh điều này khi chủ trì Hội nghị Hội đồng Điều phối vùng đồng bằng Sông Hồng lần thứ nhất, sáng 20/7 tại Hà Nội.
Cùng dự hội nghị có Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng các bộ: Kế hoạch và đầu tư, Xây dựng, Công thương, Thông tin và truyền thông, Khoa học công nghệ, Tài nguyên và môi trường; các Ủy viên Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương.
Tại hội nghị, Bộ Kế hoạch đầu tư đã công bố Quyết định số 826/QĐ-TTg ngày 11/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Hội đồng Điều phối vùng đồng bằng Sông Hồng, gồm các bộ trưởng, lãnh đạo các bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trong vùng do Thủ tướng Chính phủ tiếp tục là Chủ tịch Hội đồng.
Theo đó, Hội đồng điều phối vùng được xác định không phải là một cấp hành chính nhưng là mô hình tổ chức hiệu quả để xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của vùng, góp phần giải quyết các vấn đề bất cập mà một địa phương trong vùng không thể giải quyết được, đồng thời có thể giải quyết những vấn đề chưa đạt được sự đồng thuận hoặc vượt thẩm quyền quyết định của các bộ, ngành và địa phương trong vùng.
Quyết định 826 về thành lập Hội đồng điều phối vùng đồng bằng Sông Hồng đã đề ra 11 nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng điều phối vùng, trong đó nhấn mạnh việc điều phối phải bảo đảm nguyên tắc đồng thuận, bình đẳng, công khai, minh bạch, phù hợp với quy định của pháp luật.
Đồng thời, Quyết định 45 về ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng đã quy định 7 phương thức điều phối về: Lập và tổ chức thực hiện quy hoạch; Đầu tư phát triển; Đào tạo và sử dụng lao động; Xây dựng các cơ chế, chính sách; Giải quyết vấn đề liên kết vùng; Kế hoạch điều phối liên kết vùng; Cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin vùng.
Báo cáo tại hội nghị, Bộ trưởng Kế hoạch đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc dù đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước nhưng phát triển vùng đồng bằng Sông Hồng đã và đang đối mặt với nhiều thách thức và còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: Các địa phương phát triển không đồng đều, tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động; cơ cấu thu ngân sách chưa bền vững; một số địa phương phụ thuộc quá nhiều vào một vài dự án đầu tư nước ngoài FDI quy mô lớn; Các khu công nghiệp thiếu liên kết, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành; Hệ thống đô thị phát triển chưa hợp lý, thiếu bền vững còn nhiều bất cập.
Bên cạnh đó, quản lý đất đai, tài nguyên còn nhiều hạn chế; ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp, nhất là nước thải, chất thải nguy hại, vấn đề ách tắc giao thông; tình trạng quá tải của các bệnh viện tuyến cuối Trung ương tại Hà nội chưa được khắc phục; Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, đặc biệt là các vấn đề về lao động, thị trường tiêu thụ, hệ thống kết nối giao thông, …
Chính vì vậy, Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định rõ cần “xây dựng thể chế liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng” nhằm đổi mới cách thức hoạt động, điều phối và phương thức liên kết giữa các địa phương trong vùng để phát huy hiệu quả cao nhất những tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong Vùng.
Theo đó, vùng đồng bằng Sông Hồng được định hướng trở thành vùng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, đô thị thông minh, có tính kết nối cao.
Tình trạng ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Trong đó, Thủ đô Hà Nội “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực.
Tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn
Tại Hội nghị này, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương sẽ thảo luận, bàn bạc và xây dựng Quy hoạch vùng đồng bằng Sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và bền vững với trọng tâm là đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp hiệu quả cao, hữu cơ tuần hoàn trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ; chuyển đổi số, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong đó thảo luận và cho ý kiến về một số định hướng quy hoạch phát triển vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự kiến phát triển vùng đồng bằng Sông Hồng với 3 nhóm định hướng lớn: Tổ chức không gian phát triển Vùng gắn với 4 hành lang kinh tế - 4 vùng động lực, đô thị và cực tăng trưởng - 2 tiểu vùng kinh tế; Phát triển 8 ngành, lĩnh vực chủ yếu với trọng tâm là phát triển công nghiệp hiện đại, có lợi thế cạnh tranh của Vùng; các ngành dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao về du lịch, công nghệ thông tin, tài chính - ngân hàng, logistics, giáo dục đào tạo, y tế… gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cùng với đó phát triển kết cấu hạ tầng Vùng, với trọng tâm là phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông kết nối liên vùng như: các tuyến đường bộ cao tốc liên vùng và nội vùng, tuyến đường Vành đai 4, Vành đai 5 – Vùng Thủ đô, tuyến đường sắt tốc độ cao, hạ tầng cảng biển, cảng hàng không…
Nghiên cứu các cơ chế, chính sách huy động hiệu quả nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng, nhất là hạ tầng giao thông, phân cấp cho các địa phương chủ động thực hiện các dự án liên vùng kết nối; nghiên cứu hình thành Quỹ phát triển hạ tầng vùng để đầu tư xây dựng các dự án liên vùng; nghiên cứu đề xuất cho phép phát hành trái phiếu quốc tế hoặc vay ODA để đầu tư đồng bộ các tuyến đường sắt đô thị của TP Hà Nội hoặc cho phép áp dụng các mô hình phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông (TOD) cho các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao liên vùng và các trục giao thông chính của vùng gắn với hành lang kinh tế, nhằm khai thác tối đa không gian ngầm, mở rộng không gian phát triển, giải quyết các vấn đề của đô thị nén như ách tắc giao thông, ngập úng, ô nhiễm môi trường …
Tập trung đầu tư xây dựng phát triển hệ thống cảng biển trên địa bàn vùng gắn với xây dựng hệ thống kho bãi, logistics hiện đại. Xây dựng khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại; thành phố Hải Phòng trở thành trung tâm logistics quốc tế gắn với phát triển Khu thương mại tự do tại Hải Phòng; phát triển hành lang kinh tế ven biển Quảng Ninh – Hải Phòng – Thái Bình – Nam Định – Ninh Bình gắn với các tuyến cao tốc, đường ven biển để hình thành các khu công nghiêp - đô thị hiện đại. Liên kết các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển để hợp tác phát triển, từng bước hình thành cụm liên kết ngành công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện, điện tử, thay vì cạnh tranh, triệt tiêu lẫn nhau.
Tập trung giải quyết căn bản các vấn đề môi trường nhất là rác thải, khi thải, ô nhiễm tại các dòng sông, tình trạng ngập úng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và các đô thị lớn. Thảo luận, định hướng vị trí, quy mô các khu xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại tập trung cấp vùng; thu hút đầu tư, xã hội hóa nguồn lực để cải thiện phục hồi chất lượng môi trường tại lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. Quy hoạch và có cơ chế, chính sách để di chuyển, xây dựng mới các bệnh viện, trường đại học tại các địa phương lân cận để giảm tải áp lực đối với hạ tầng xã hội, ùn tắc giao thông tại Hà Nội.
Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách phát triển tiểu vùng phía Nam vùng đồng bằng Sông Hồng, nhất là việc tiếp cận nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng; thu hút đầu tư với định hướng phát triển tiểu vùng Nam đồng bằng Sông Hồng, tập trung một số lĩnh vực như: nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; công nghiệp bảo quản chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ; năng lượng tái tạo; phát triển các khu công nghiệp sinh thái, khu kinh tế ven biển; du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh.
Tập trung phát triển vùng đồng bằng Sông Hồng trở thành trung tâm khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hàng đầu của cả nước. Kết nối hiệu quả với Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia đã được hình thành, gắn với xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo vùng đồng bằng Sông Hồng, các khu trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo tại Hà Nội, Hải Phòng, Hà Nam.
TP Hà Nội sẽ tiếp nhận Khu công nghệ cao Hòa Lạc nên cần nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, chính sách để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của Khu công nghệ cao gắn với các viện nghiên cứu, trường đại học của Thành phố để trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của vùng. Nghiên cứu, xây dựng khu công nghệ cao tại Hà Nam theo lộ trình phù hợp, tập trung vào lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học.
Nghiên cứu đề xuất các cơ chế đặc thù cho vùng đồng bằng Sông Hồng. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Thành phố Hà Nội xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) trong đó có 80 chính sách mới, đột phá cho thành phố nhằm phát triển TP. Hà nội trở thành trung tâm đầu não, chính trị, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và y tế của Vùng. Đối với vùng, đề nghị nghiên cứu một số cơ chế, chính sách tập trung vào một số lĩnh vực: Phát triển hạ tầng giao thông hiện đại (đường cao tốc, đường sắt đô thị), logistics, dịch vụ hậu cần cảng biển, khu thương mại tự do gắn với hệ thống cảng biển; Quản lý xây dựng và phát triển hạ tầng đô thị thông minh và bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo; Gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa, lịch sử gắn với phát triển du lịch.
Thảo luận về các danh mục dự án quan trọng liên vùng để chuẩn bị cho giai đoạn 2026-2030 và nguyên tắc, tiêu chí xác định dự án và cách thức bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện.
Tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Vùng đồng bằng Sông Hồng có lợi thế hiện đang là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và là cái nôi sản sinh, đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, trung tâm nghiên cứu, giáo dục nghề nghiệp có uy tín tập trung tại Thành phố Hà Nội nên cần có giải pháp đào tạo, phát huy đội ngũ nhân lực của Vùng.
Nghiên cứu xây dựng trung tâm dữ liệu vùng, hoàn thiện và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu chung của các tỉnh, thành phố trực thuộc vùng nhất là về lĩnh vực môi trường, quản lý đất đai, thu hút đầu tư, các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội để phục vụ công tác điều phối liên kết vùng hiệu quả, chính xác, kịp thời.
Đặc biệt về giải pháp phân bổ không gian đô thị và giải nén, giảm tải cho các đô thị lớn vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị đưa ra giải pháp về quy hoạch, định hướng phát triển hệ thống các đô thị trong vùng và phát triển hệ thống đô thị bền vững và đồng bộ về mạng lưới, đảm bảo cân đối giữa phát triển mới với cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị, đảm bảo chất lượng đô thị; đẩy mạnh phát triển nhà ở, hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, liên kết và nâng cao năng lực chống chịu, thích ứng biến đổi khí hậu.
Trong đó nhấn mạnh, cần thúc đẩy các cơ chế chính sách, hành lang pháp lý và các giải pháp để hình thành liên kết hiệu quả theo mạng lưới giữa các đô thị trong vùng; Quy hoạch lại hệ thống bệnh viện, trường đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, trung tâm logistic, trung tâm thương mại, chợ đầu mối, mạng lưới chợ dân sinh để tổ chức thực hiện có hệ thống, bài bản các giải pháp giảm áp lực cho các đô thị lớn, tăng cơ hội phát triển cho các khu vực phụ cận, thúc đẩy tính hiệu quả của mạng lưới hạ tầng trong vùng.
Để khắc phục được các tồn tại, thách thức trong công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường cũng như đánh thức được các tiềm năng lợi thế nhằm phát triển vùng một cách toàn diện, bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường xứng đáng với vị trí là trung tâm lan tỏa phát triển và kết nối liên vùng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đề xuất 5 nhiệm vụ, giải pháp.
Ông Đặng Quốc Khánh nhấn mạnh việc cần ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút đầu tư các dự án xử lý rác thải cấp vùng và liên tỉnh có công nghệ tiên tiến, hiện đại; đơn giản hóa các thủ tục chuẩn bị đầu tư, xây dựng và vận hành cơ sở xử lý chất thải.
Ban hành các quy chuẩn công nghệ, các quy định về phí dịch vụ môi trường, các cơ chế, chính sách về đất đai, đầu tư,…ưu tiên thu hút các nhà đầu tư trong xử lý, tái chế rác thải, xử lý nước thải; ưu tiên phát triển các công nghệ xử lý kết hợp thu hồi năng lượng, thân thiện môi trường.
Thúc đẩy triển khai 3 đột phá chiến lược
Sau khi nghe các ý kiến phát biểu, kết luận hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ về tiềm năng vị trí, vai trò và những những tồn tại, hạn chế của vùng Đồng bằng Sông Hồng. Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị đã nêu rất rõ các chủ trương, đường lối lớn. Thủ tướng khái quát các vấn đề quan trọng: quán triệt, thống nhất cao về nhận thức về hành động ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng, kết nối vùng; coi liên kết vùng là động lực dẫn dắt sự phát triển của tất cả các địa phương trong vùng; hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng mang tính đột phá, xây dựng thể chế liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm đủ mạnh điều phối liên kết phát triển vùng tập trung quy hoạch, đầu tư, xử lý các vấn đề nổi lên của liên kết vùng, liên kết vùng; phát triển các… ; nghiên cứu cơ chế, chính sách để khuyến khích nuôi dưỡng, tạo động lực phát triển.
Thủ tướng nêu rõ, Hội đồng vùng phải tạo ra phong trào, rút kinh nghiệm, xử lý các vấn đề còn ách tắc. Từ nay đến cuối năm, về tư tưởng chỉ đạo, Hội đồng góp phần nâng cao hiệu quả tính liên kết, điều phối vùng, không làm thay việc của cấp uỷ, chính quyền, tạo phong trào, xu thế phát triển trong vùng..Các tỉnh, thành phố phải phát huy tính tự lực, tự cường, không trông chờ ỷ lại Trung ương, Hội đồng vùng. Hội đồng vùng tạo sức mạnh tổng hợp của cả vùng; linh hoạt vùng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các các cân đối lớn; trong lúc này ưu tiên cho tăng trưởng, tập trung 3 động lực tăng trưởng (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu); góp phần vào công tác giữ vững quốc phòng an ninh, ổn định chính trị, tạo môi trường hoà bình, hợp tác, phát triển cho cả nước.
Hội đồng phải góp phần thúc đẩy triển khai 3 đột phá chiến lược, góp phần kết nối hạ tầng chiến lược của vùng: Đường cao tốc từ Ninh Bình sang Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng; đường ven biển Thanh Hoá, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh; kết nối hạ tầng về kỹ thuật, điện, nước, viễn thông; kết nối tạo nguồn nhân lực và cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; cùng nhau xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách ưu tiên, ưu đãi đặc biệt, đặc thù vượt trội.
Về nguồn lực tài chính, Thủ tướng yêu cầu phải liên kết sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhà nước đầu tư cho vùng, phát huy tính hiệu quả của nguồn vốn của các địa phương, liên kết với nhau theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 30 là cho phép các địa phương được sử dụng ngân sách địa phương đầu tư cho các dự án địa phương và vùng. Phải liên kết hợp tác công tư, thu hút đầu tư FDI, góp phần tạo sức mạnh cho các nhà đầu tư phù hợp điều kiện, đặc thù của mỗi tỉnh. Về vay vốn ODA, Thủ tướng chỉ rõ chúng ta chưa làm tốt, vừa qua Chính phủ đã quyết liệt sửa một loạt chính sách liên quan vấn đề này, như vừa qua có cơ chế, chính sách cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Liên kết phát triển hạ tầng xã hội, văn hoá gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng; chia sẻ kinh nghiệm với nhau, trao đổi, học hỏi lẫn nhau.
Về nhiệm vụ cụ thể, Thủ tướng đề nghị hoàn thiện tổ chức hoạt động tinh gọn, các địa phương giúp việc cho Hội đồng; đẩy mạnh công tác quy hoạch của vùng, của tỉnh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đẩy mạnh hoàn thiện các công việc để phê duyệt quy hoạch vùng trong quý III, các tỉnh (trừ Quảng Ninh) phải hoàn thành việc quy hoạch trong quý III này, riêng thành phố Hà Nội phải hoàn thành trong quý IV. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù vượt trội và Luật Thủ đô, giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu cho Hội đồng; xây dựng các dự án cụ thể hoàn thiện đường ven biển về thủ tục đầu tư, phân bổ vốn; hoàn thiện các thủ tục đầu tư cao tốc Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Nghiên cứu phát hành trái phiếu trong ngoài nước hoặc vay vốn ODA để đầu tư đường sắt cao tốc, kể cả các tuyến đường sắt kết nối Hà Nội với các địa phương chung quanh như Hà Nội - Vĩnh Phúc; Hà Nội – Hưng Yên; Hà Nội – Láng, Hoà Lạc, phải có cơ chế đột phá.
Nghiên cứu phát triển các dự án bảo vệ môi trường cho Hà Nội và các tỉnh chung quanh, nhất là chống biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, thích ứng điều kiện các nước liên quan vấn đề bảo vệ môi trường. Tình hình thay đổi nên tư duy và hành động phải thay đổi. Liên kết các khu công nghiệp, khu thương mại để không lãng phí nguồn lực, tạo sức mạnh chung. Liên kết để phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; chuyển Khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc về thành phố Hà Nội. Đây là trung tâm chuyển đổi số, các vấn đề khác liên quan vấn đề chung của cả vùng; xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, cơ sở dữ liệu trong vùng. Xây dựng cơ chế hợp tác trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực…
Thủ tướng yêu cầu Bộ Nội vụ phải tham mưu vấn đề này. Phải kết nối doanh nghiệp, liên quan xúc tiến đầu tư, khắc phục các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, đa dạng hoá chuỗi cung ứng, liên kết vùng phát triển các sản phẩm OCOP. Tổ chức các hội thảo khoa học tập trung vào chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn; xây dựng các cơ chế thích ứng biến đổi khí hậu, thiên tai; xây dựng các quỹ phát triển hạ tầng.
Thủ tướng yêu cầu đầu quý IV sẽ họp, đầu tháng 12 giúp Bộ Chính trị báo cáo các công việc của Hội đồng. Tinh thần của Tổng Bí thư đã đề ra là tạo phong trào, xu thế của vùng, các vùng.
Nhấn mạnh tư duy đổi mới mang lại cách làm mới; cách làm mới mang lại động lực mới; động lực mới mang lại kết quả mới, Thủ tướng tin tưởng rằng, với sự quyết tâm, đoàn kết, chung sức đồng lòng và nỗ lực cao của các bộ, ngành, các địa phương trong vùng; sự góp sức, chung tay của các chuyên gia, nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các đối tác liên quan, Hội đồng Điều phối sẽ không ngừng nỗ lực, đổi mới, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra, phát triển vùng Đồng bằng Sông Hồng nhanh và bền vững, xứng đáng với vị trí, vai trò quan trọng của mình./.