Tổng Bí thư trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản
VOV.VN - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Việt Nam coi Nhật Bản là một trong những đối tác phát triển quan trọng hàng đầu và lâu dài.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các nhà báo Nhật Bản |
VOV.VN trân trọng giới thiệu toàn văn cuộc phỏng vấn.
PV: Đây là chuyến thăm Nhật Bản đầu tiên của Tổng Bí thư. Xin Tổng Bí thư cho biết kỳ vọng của Ngài về chuyến thăm? Những vấn đề nào sẽ được hai bên thảo luận trong chuyến thăm lần này? Thông điệp mà Ngài muốn gửi tới nhân dân Nhật Bản qua chuyến thăm lần này?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đúng đây là chuyến thăm chính thức Nhật Bản đầu tiên của tôi trên cương vị Tổng Bí thư theo lời mời của Thủ tướng Nội các Nhật Bản Shinzo Abe. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước chúng ta đang phát triển rất tốt đẹp. Với chuyến thăm này, chúng tôi muốn khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam coi Nhật Bản là một trong những đối tác phát triển quan trọng hàng đầu và lâu dài, thúc đẩy toàn diện và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng giữa hai nước vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á.
Với ba điểm nhấn là thúc đẩy kết nối hai nền kinh tế, tăng cường tin cậy chính trị và đẩy mạnh hợp tác trong các vấn đề khu vực và quốc tế, tôi hy vọng rằng, kết quả chuyến thăm sẽ tạo động lực mạnh mẽ, góp phần đưa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển lên tầm cao mới.
Như các bạn đã biết, Việt Nam và Nhật Bản vốn có quan hệ gắn bó đã từ lâu đời; nhân dân hai nước chia sẻ nhiều giá trị văn hoá tương đồng, có tình cảm hữu nghị chân thành với nhau, hai nước có nhiều lợi ích chung to lớn trước mắt và lâu dài. Giờ đây, hai nước không chỉ là đối tác chiến lược sâu rộng mà còn là những người bạn chân thành, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Việt Nam hoan nghênh một Nhật Bản phát triển phồn vinh, đóng vai trò ngày càng tích cực cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Việc tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Nhật Bản là đáp ứng nguyện vọng và phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, của khu vực và thế giới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp các nhà báo Nhật Bản |
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tôi hài lòng nhận thấy, từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973, nhất là từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã vượt qua những trở ngại của quá khứ, có những bước tiến quan trọng và thực chất. Với việc thiết lập quan hệ "Đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á" năm 2009 và nâng cấp thành quan hệ "Đối tác chiến lược sâu rộng vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á" năm 2014, quan hệ hợp tác giữa hai nước chúng ta đã phát triển nhanh chóng, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Sự tin cậy lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được củng cố và tăng cường, đặc biệt là thông qua các chuyến thăm và tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo cấp cao và các cấp giữa hai nước. Hợp tác kinh tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhất là trên các lĩnh vực ODA, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, thương mại, du lịch... Giao lưu nhân dân, văn hoá cũng diễn ra sôi động; sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước ngày càng sâu sắc. Thành tựu đó là kết quả của sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, phát huy lợi ích tương đồng, nâng cao hiệu quả hợp tác, nỗ lực hướng tới tương lai của lãnh đạo và nhân dân hai nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trả lời câu hỏi của các nhà báo Nhật Bản |
Chúng tôi cũng mong muốn Nhật Bản tiếp tục ưu tiên dành nguồn vốn ODA ưu đãi cho Việt Nam, tăng mạnh đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, phát triển hạ tầng, nông - lâm - ngư nghiệp,... thúc đẩy thuận lợi hoá thương mại giữa hai nước, đẩy mạnh hợp tác trực tiếp giữa các địa phương của hai nước. Đồng thời, cần tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, du lịch, lao động, giao lưu nhân dân... hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, biến đổi khí hậu, hợp tác về quốc phòng, an ninh... giữa hai nước.
Trên cơ sở nền tảng đó, cùng với quyết tâm và nỗ lực từ cả hai phía, tôi tin rằng quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiếp tục phát triển ngày càng toàn diện và sâu sắc vì lợi ích của nhân dân hai nước.
PV: Hiện nay nguồn vốn ODA nào từ Nhật Bản mà Việt Nam cần nhất? Xin Tổng Bí thư cho biết đánh giá về chính sách mà Chính phủ Nhật Bản tuyên bố gần đây "Hợp tác vì hạ tầng chất lượng"?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là nước cung cấp viện trợ phát triển (ODA) lớn nhất cho Việt Nam. Việt Nam luôn đánh giá cao sự hỗ trợ quý báu đó của Chính phủ và nhân dân Nhật Bản, đồng thời luôn nỗ lực sử dụng hiệu quả, minh bạch và đúng mục đích nguồn vốn ODA của Nhật Bản.
Tôi đặc biệt đánh giá cao sự hợp tác và hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Những công trình lớn thực hiện bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản như cầu Cần Thơ, cầu Bãi Cháy, cầu Nhật Tân, đường vành đai 3 Hà Nội, nhà ga T2 sân bay quốc tế Nội Bài… đã và đang góp phần làm thay đổi bộ mặt kết cấu hạ tầng của đất nước, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và trở thành biểu tượng sinh động cho sự hợp tác và tình hữu nghị giữa hai nước.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chúng tôi mong muốn Nhật Bản tiếp tục duy trì nguồn vốn ODA cho Việt Nam ở mức cao, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp và nông nghiệp tiên tiến, ứng phó với biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường, nâng cao năng lực quản lý kinh tế...
Chúng tôi cũng đánh giá cao việc Nhật Bản triển khai Chương trình "Đối tác cơ sở hạ tầng chất lượng" nhằm phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng cao ở Châu Á và mong muốn Việt Nam sẽ trở thành đối tác ưu tiên của Nhật Bản trong chương trình này.
PV: Rất nhiều doanh nghiệp Nhật Bản muốn được kinh doanh tại Việt Nam. Xin Tổng Bí thư cho biết ý kiến về mối quan hệ kinh doanh giữa hai nước?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Việt Nam luôn coi trọng hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Hai bên đã thoả thuận về nhiều dự án, chương trình hợp tác quan trọng, trong đó có Chiến lược Công nghiệp hoá trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với các ngành ưu tiên như điện tử, máy nông nghiệp, chế biến nông - thuỷ sản, đóng tàu, môi trường, tiết kiệm năng lượng, sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô. Nhật Bản cũng đang tích cực hỗ trợ Việt Nam về công nghệ, kinh nghiệm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh đó, tôi cho rằng việc Cộng đồng ASEAN thành lập vào cuối năm 2015 cũng như việc Việt Nam và Nhật Bản cùng tham gia quá trình xây dựng các liên kết kinh tế khu vực như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) sẽ mở ra những cơ hội mới để doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác đầu tư kinh doanh.
Chúng tôi hoan nghênh các doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường và mở rộng quy mô đầu tư vào Việt Nam trong các ngành thế mạnh của Nhật Bản như chế biến, chế tạo, xây dựng, năng lượng...., tiếp tục tìm hiểu và mở rộng đầu tư sang các ngành công nghiệp ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác giữa hai nước. Tôi xin khẳng định rằng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nỗ lực, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Nhật Bản có thể đầu tư, kinh doanh thành công ở Việt Nam.
PV: Vào năm 2016, Việt Nam sẽ kỷ niệm 30 năm thực hiện chính sách Đổi mới. Xin Tổng Bí thư cho biết ý kiến về việc này? Thời gian gần đây, Việt Nam được đánh giá là một nước phát triển mới tại Châu Á với những thành tựu kinh tế nổi bật. Bên cạnh đó, ở Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề như tham nhũng, khoảng cách giàu nghèo, môi trường đầu tư cần được cải thiện... Việt Nam nhìn nhận, đánh giá như thế nào về các vấn đề còn tồn tại đó, cũng như sẽ giải quyết các vấn đề đó như thế nào?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử. Riêng về phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt khoảng 7% trong giai đoạn 1991 - 2015. Từ một nước kém phát triển, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình từ năm 2010 và đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cũng đạt trước thời hạn nhiều mục tiêu quan trọng trong số các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MGD), đặc biệt là các thành tựu về xoá đói, giảm nghèo, y tế, giáo dục.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng, Việt Nam còn gặp không ít khó khăn, hạn chế như chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, môi trường kinh doanh còn không ít những vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, đời sống một bộ phận nhân dân chậm cải thiện…
Để khắc phục các khó khăn, hạn chế nói trên, Việt Nam quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, tranh thủ thời cơ thuận lợi, huy động và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Chúng tôi xác định sẽ nỗ lực phát triển bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế; nhất quán quan điểm tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường.
Để làm được điều đó, chúng tôi đang tập trung triển khai mạnh mẽ 3 khâu đột phá chiến lược về thể chế, nhân lực, hạ tầng, tập trung phát triển kinh tế nhanh và bền vững hơn, chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, phát triển nông thôn mới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh minh bạch, an toàn và thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp phát huy sáng tạo và cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế thị trường.
PV: Kinh tế Việt Nam hiện đang có nhiều thuận lợi cho thành công. Là thành viên của Cộng đồng ASEAN và đối tác trong các hiệp định thương mại tự do như TPP đều là những nhân tố thuận lợi. Tổng Bí thư đánh giá như thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam trong tương lai?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Những kết quả quan trọng mà Việt Nam đã đạt được trong công cuộc đổi mới đang là nền tảng vững chắc, tạo sức bật cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế của Việt Nam đang bước sang giai đoạn mới khi Cộng đồng ASEAN bắt đầu đi vào hoạt động từ cuối năm 2015. Việt Nam cũng đã chính thức ký Hiệp định thương mại tự do FTA với nhiều đối tác, đồng thời, đang cùng các nước tích cực đàm phán giai đoạn cuối Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)... Theo đó, với triển vọng hoàn tất 12 hiệp định thương mại tự do FTA trong thời gian tới, Việt Nam sẽ trở thành mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 55 đối tác, trong đó có 15 thành viên G-20.
Những bước chuyển mạnh mẽ trong phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế đang mở ra thị trường và không gian phát triển mới, đồng thời thúc đẩy kinh tế Việt Nam tham gia sâu hơn và hiệu quả hơn vào mạng lưới sản xuất khu vực và toàn cầu. Mặc dù ý thức rõ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, song tôi tin rằng, với thế và lực của đất nước hiện nay, nền kinh tế Việt Nam sẽ có những bước chuyển mình mạnh mẽ và tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới.
PV: Đối với Cộng đồng ASEAN, đây là một năm có dấu ấn hết sức quan trọng trong việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN. Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong khối ASEAN. Xin Tổng Bí thư cho biết, với tư cách là một thành viên của ASEAN, Việt Nam muốn trở thành một quốc gia như thế nào? Xin Ngài vui lòng cho biết Việt Nam mong đợi sự trợ giúp gì từ Nhật Bản cho ASEAN?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Cách đây 20 năm, Việt Nam đã quyết định gia nhập ASEAN, một bước đi chiến lược và là điểm đột phá đầu tiên trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, góp phần triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chúng tôi luôn coi trọng vai trò của ASEAN đối với hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ XI của chúng tôi chủ trương "Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương". Chính sách nhất quán của chúng tôi là thúc đẩy xây dựng một Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh. Chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng, đây là lợi ích của Việt Nam, nhưng cũng là lợi ích chung của khu vực. Chúng tôi đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò của một thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của ASEAN, nỗ lực đóng góp nhiều hơn nữa cho sự lớn mạnh của Cộng đồng ASEAN trong thời gian tới.
Về quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN, tôi tin chắc không chỉ Việt Nam chúng tôi mà các quốc gia thành viên ASEAN khác đều trông đợi cùng Nhật Bản tiếp tục đóng góp tích cực và xây dựng vì hoà bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng ở khu vực, trên tinh thần đối tác chiến lược ASEAN - Nhật Bản.
Như các bạn đã biết, trong một vài tháng tới, Cộng đồng ASEAN sẽ ra đời, đánh dấu sự phát triển về chất của Hiệp hội, là nền tảng để Hiệp hội chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn, liên kết chặt chẽ hơn. Việt Nam và các quốc gia thành viên đều hy vọng sự hỗ trợ, giúp đỡ thiết thực của các quốc gia đối tác, trong đó có Nhật Bản, để triển khai các cam kết, thoả thuận và chương trình hợp tác đã có, đặc biệt là việc hỗ trợ ASEAN thành lập Cộng đồng và xây dựng Cộng đồng giai đoạn sau năm 2015.
Là quốc gia có vai trò và vị thế quan trọng trong khu vực, chúng tôi hy vọng Nhật Bản tiếp tục ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các cơ chế hợp tác khu vực; tích cực tham gia các cơ chế do ASEAN khởi xướng như ARF, EAS, ADMM+; cùng phối hợp chặt chẽ với ASEAN tại các cơ chế quốc tế khác như APEC, ASEM, Liên hợp quốc; tăng cường phối hợp đối phó với các thách thức khu vực và toàn cầu, đẩy mạnh hợp tác với ASEAN trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống, nhất là những lĩnh vực Nhật Bản có thế mạnh như an ninh mạng, cứu trợ thảm hoạ, thiên tai, chống cướp biển…
Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác giữa Nhật Bản với các nước Tiểu vùng sông Mekong và mong Nhật Bản tiếp tục tích cực hỗ trợ phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây, quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.
Một nhà báo Nhật Bản đặt câu hỏi phỏng vấn với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng |
PV: Việt Nam đã thiết lập thể chế chính trị một đảng duy nhất trong nhiều năm lịch sử. Hiện nay, hệ thống chính trị như vậy là rất hiếm trên thế giới. Ngài có tin tưởng rằng hệ thống chính trị độc đáo này sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Thực tiễn lịch sử nhân loại cho thấy, việc hình thành các thể chế chính trị là dựa trên hoàn cảnh, điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể của mỗi quốc gia, không có mô hình duy nhất để áp đặt cho tất cả các nước. Chế độ chính trị của Việt Nam là kết quả của tiến trình lịch sử cụ thể của Việt Nam, trong đó có sự tín nhiệm và ủng hộ rộng rãi của nhân dân đối với vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cuộc đấu tranh lâu dài giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đổi mới, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Tôi cho rằng, bản chất cốt lõi nhất của dân chủ là bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; thể chế chính trị nào đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, của dân tộc thì thể chế đó sẽ có sức sống lâu dài, mãnh liệt, không phụ thuộc vào việc có một đảng hay đa đảng. Và vấn đề quan trọng quyết định không phải là ở số lượng mà là ở chất lượng của đảng, tức là đảng đó là đảng của ai, được tổ chức, hoạt động như thế nào và vì lợi ích của ai, mối quan hệ với nhân dân như thế nào, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân ra sao, có được đại đa số nhân dân ủng hộ hay không?
Trong 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn phấn đấu theo một tôn chỉ duy nhất, không thay đổi, là phục vụ lợi ích của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn cầu thị, tự phê bình và đổi mới, khắc phục những hạn chế để không ngừng tự hoàn thiện mình nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ nhân dân giao phó, xứng đáng là đại diện chân chính cho quảng đại quần chúng nhân dân Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam.
Mục tiêu xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam ngày nay. Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân. Sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân là cơ sở quan trọng, quyết định nhất đối với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân Việt Nam có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình và chúng tôi tin tưởng rằng đó là sự lựa chọn đúng đắn vì tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
PV: Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, Việt Nam thực tế cũng có nền kinh tế thị trường. Ngài có suy nghĩ thế nào về việc chuyển đổi này?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đúng là Việt Nam chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một tìm tòi sáng tạo của Việt Nam, vừa theo quy luật chung vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Chúng ta đều biết, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc Việt Nam áp dụng kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển và xu thế của thời đại. Nhưng thực tế cũng cho thấy, trong thời đại ngày nay, không quốc gia nào có thể phó thác mọi vấn đề kinh tế cho "bàn tay vô hình" của thị trường, mà phải kết hợp kinh tế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường, tôn trọng quy luật kinh tế thị trường, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế, có sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, chủ động và tích cực hội nhập vào thị trường thế giới. Đồng thời, Việt Nam cũng coi trọng vai trò điều tiết của Nhà nước để bảo đảm cho thị trường hoạt động lành mạnh và hiệu quả, sử dụng các chính sách và công cụ kinh tế để thúc đẩy phát triển bền vững, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, gắn liền phát triển kinh tế với xoá đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái,... từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn với kinh tế thị trường. Trái lại, đó là sự kết hợp biện chứng, cần thiết, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
PV: Hiện nay thử thách lớn nhất mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang phải đối mặt là gì? Đảng sẽ giải quyết với thử thách này như thế nào tại Đại hội Đảng lần thứ XII? Xin Ngài cho biết một số nội dung chính mà Đại hội Đảng sẽ bàn thảo? Liệu có sự thay đổi nào về vai trò của Đảng sau Đại hội? Việt Nam sẽ đi theo phương hướng nào? Xin vui lòng cho biết ý kiến của Ngài về chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế… ?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ diễn ra vào thời điểm Việt Nam đi qua chặng đường 30 năm Đổi mới. Đây là giai đoạn lịch sử rất quan trọng của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đại hội XII dự kiến sẽ bàn bạc và quyết định những chủ trương, đường lối lớn về đối nội, đối ngoại của Việt Nam trong 5 năm tới, nhằm đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội sẽ tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, chỉ ra những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức, trên cơ sở đó sẽ làm rõ hơn những vấn đề lý luận lớn để xác định phương hướng phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới, như: các bước đi của thời kỳ quá độ; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mô hình và phương thức quản lý xã hội; đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế và chính trị; động lực của đổi mới và quá trình phát triển ở Việt Nam trong thời kỳ mới… Công tác xây dựng Đảng cũng sẽ rất được coi trọng, nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn tới.
Chúng tôi kiên trì thực hiện đường lối Đổi mới đồng bộ và toàn diện nhằm đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự, công bằng xã hội, phát huy dân chủ và nâng cao đời sống của nhân dân. Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng phát triển, năng suất lao động; thực hiện 3 đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Về đối ngoại, chúng tôi kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Đây là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục hướng tới đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện; đưa quan hệ với các đối tác, trong đó có Nhật Bản, đi vào chiều sâu; chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương với tinh thần "Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế".
PV: Trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư./.