Tiêu thụ hàng tồn cá tra: Đề xuất Chính phủ gia hạn đến hết năm 2015
VOV.VN -Chính phủ có tầm nhìn xa, trông rộng trong việc gây dựng hình ảnh cá tra độc đáo, chất lượng của Việt Nam trên thị trường thế giới.
“Tư duy giá rẻ, bao cấp là điều vô cùng nguy hiểm” – Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã nhấn mạnh như vậy tại Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ năm 2015 của ngành nông nghiệp ngày 25/12/2014. Ứng vào câu chuyện cá tra hiện nay, chúng ta mới thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Chính phủ trong việc gây dựng hình ảnh cá tra độc đáo, chất lượng của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Lợi trước mắt, hại lâu dài
Nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra đã có những bước phát triển vượt bậc trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt tại một số tỉnh Tây Nam Bộ ven sông Tiền, sông Hậu như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh, Tiền Giang. Tại An Giang, với thời gian nuôi 7 tháng 1ha cá tra có thể đạt năng suất 500 tấn.
“Vừa rồi, tôi kêu gọi dân đồng bằng sông Cửu Long kiềm chế, giảm năng suất xuống mức độ bình quân 300 tấn/ha/vụ” – Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát chia sẻ. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thủy sản, năm 2014 sản lượng cá tra nuôi là 1,1 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sản xuất, chế biến, xuất khẩu cá tra đã có những biểu hiện thiếu bền vững do quy hoạch nuôi trồng, chế biến; cân đối cung cầu; chất lượng sản phẩm cá tra fillet không đảm bảo dẫn đến nhiều lúc giá thu mua cá nuôi thấp hơn giá thành. Trong những ngày cuối năm 2014, cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long tăng giá trở lại, do một số nhà máy cần nguyên liệu đưa giá thu mua lên 24.000-24.500đ/kg. Tuy nhiên, chỉ có lợi cho người nuôi cá liên kết gia công hoặc nuôi theo hợp đồng bán cho các nhà máy chế biến. Trong khi đó không ít người từng có ao nuôi cá tra trước đây khoanh tay ngồi nhìn vì nợ nần, cạn vốn.
Trong khi đó, các cảnh báo của thị trường nhập khẩu về chất lượng thấp, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng tăng. Đáng lưu ý là thông tin về cá tra fillet có tỷ lệ mạ băng cao được đăng tải trên các báo tại Nga, Mỹ, Braxin, Italy, Tiểu vương quốc Ả rập… Cộng hòa Liên bang Đức còn công bố hàm lượng nước trong cá tra fillet cao bất thường. Tại hội nghị của Liên minh Thanh tra thủy sản thế giới tại Hoa Kỳ năm 2012 và gần đây tại Diễn đàn về gian lận thực phẩm của Tổng vụ Sức khỏe và Bảo vệ người tiêu dùng, Ủy ban Châu Âu ngày 23-24/10/2014 tại Rome (Italy), cá tra fillet đông lạnh đã trở thành một ví dụ về việc lạm dụng phụ gia tăng trọng và mạ băng.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định 36/2014/NĐ-CP quy định về tỉ lệ mạnh băng không quá 10%, hàm lượng nước trong cá fillet không quá 83%. Tỉ lệ mạ băng và hàm lượng nước nêu trên được quy định dựa trên yêu cầu về công nghệ chế biến cá tra theo tiêu chuẩn quốc tế. Đơn cử, hiện nay Liên bang Nga quy định tỉ lệ mạ băng trong cá fillet đông lạnh là 5%, tôm đông lạnh là 7%. “Nước Nga nhập khẩu cá chứ không cần nhập khẩu nước mạ băng’ – một quan chức Liên bang Nga đã phản ứng gay gắt khi tỉ lệ mạ băng trong cá tra fillet nhập khẩu vào nước này cao bất thường. Còn các thị trường khác không quy định cụ thể nhưng yêu cầu mạ băng chỉ với mục tiêu bảo quản, chống mất nước (cháy lạnh) của cá fillet đông lạnh.
Gieo nhân nào thì gặt quả ấy
Trong bối cảnh các thỏa thuận hiệp định song phương với các thị trường xuất khẩu lớn sắp được ký kết, nhất là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU, từ đầu 2015, hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào các thị trường này sẽ được hưởng nhiều ưu đãi như ưu đãi về thuế. Tuy nhiên, đồng thời với đó cũng gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu cao theo tiêu chuẩn quốc tế như sản phẩm thủy sản bền vững, tăng các đòi hỏi về truy nguyên nguồn gốc. Vì vậy, mặc dù nhu cầu nhập khẩu thủy sản từ các nước như Mỹ, EU, Nhật Bản... còn rất lớn, nhưng giải pháp để cạnh tranh quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nước ta là phải cạnh tranh bằng con đường chất lượng hàng hóa mới duy trì được mức tăng trưởng, duy trì được hàm lượng giá trị gia tăng.
Vì thế, theo Bộ NN&PTNT, việc áp dụng tỉ lệ mạ băng không quá 10% là đủ để bảo vệ sản phẩm, chống cháy lạnh và khả thi trong thực hiện. Về hàm lượng nước trong sản phẩm cá tra fillet đông lạnh, kết quả nghiên cứu cho thấy ngâm quay theo phương án phù hợp sẽ cải thiện chất lượng cảm quan, đi kèm tăng trọng từ 10%-30%. Phương án sử dụng phụ gia cải thiện chất lượng cảm quan tương ứng tăng trong 15% (hàm lượng nước là 83% xử lý mẫu theo Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc 83.6% xử lý mẫu theo Codex) sẽ đảm bảo được sản phẩm cá tra fillet chất lượng cao, có uy tín về lâu dài nhưng tại thời điểm hiện tại sẽ có khó khăn cho doanh nghiệp trong thương lượng với khách hàng ký hợp đồng vì từ trước tới nay các bên đã quen với việc mua bán cá tra giá rẻ và quan ngại sản phẩm chất lượng cao sẽ khó cạnh tranh với các loài cá thịt trắng khác như cá Minh Thái, cá rô phi.
Cũng theo Bộ NN&PTNT, phương án sử dụng phụ gia để cải thiện chất lượng cảm quan tương ứng với mắc tăng trọng 30% (hàm lượng nước là 84.5% xử lý mẫu theo Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc 85.5% xử lý mẫu theo Codex) giải quyết được những khó khăn trước mắt của doanh nghiệp chế biến. Tuy nhiên, về lâu dài, theo Bộ NN&PTNT, điều này không tạo được uy tín về sản phẩm cá tra độc đáo của Việt Nam có chất lượng cao, không ngăn chặn được hiện tượng gian lận thương mại.
Theo báo cáo của các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu, lượng sản phẩm không đáp ứng quy định về hàm lượng nước, tỉ lệ mạ băng sau ngày 12/9/2014 là 364,067 tấn. Hiện các cơ quan chức năng đã tổ chức 11 đoàn công tác đến làm việc tại các doanh nghiệp để thống kê, xác nhận lượng sản phẩm không đáp ứng quy định của Nghị định 36/2014/NĐ-CP, số liệu chính xác sẽ được tổng hợp trong ngày 31/12/2014.
“Lượng hàng không đáp ứng quy định tại Nghị định 36/2014/NĐ-CP sau ngày 31/12/2014 do đặc thù sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp: Bộ NN&PTNT đề xuất Chính phủ cho phép các doanh nghiệp còn hàng tồn được tiêu thụ đến hết năm 2015 vì việc rã đông, tái chế sản phẩm sẽ ảnh hưởng nghiên trọng đến chất lượng cảm quan, không đảm bảo chất lượng sản phẩm xuất khẩu, gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp” – Bộ NN&PTNT nêu tại phiên họp Chính phủ trong ngày 30/12/2014./.
Lộ trình áp dụng quy định về hàm lượng nước
Kéo dài thời gian chuyển tiếp áp dụng Nghị định 36/2014/NĐ-CP đến ngày 31/12/2015 nhưng với hàm lượng nước trong cá tra fillet không quá 84.5% xử lý mẫu theo Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc 85.5% xử lý mẫu theo Codex tương ứng mức tăng trọng 30%.
Từ ngày 1/1/2016, áp dụng quy định về hàm lượng nước theo đúng Nghi định 36/2014/NĐ-CP: 83% xử lý mẫu theo Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc 83.6% xử lý mẫu theo Codex tương ứng với mức tăng trọng 15%.