Ưu tiên 7 nhóm giải pháp phát triển kinh tế-xã hội
Đây là ý kiến đề nghị của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đưa ra tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII.
Chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XIII, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức họp toàn thể để thẩm tra các Báo cáo về kinh tế - xã hội và đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp thứ 2.
Quán triệt kết luận Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, Ủy ban Kinh tế chuẩn bị các Báo cáo thẩm tra về kinh tế-xã hội.
VOVOline giới thiệu bản báo cáo tóm tắt thẩm tra kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và năm 2012 của Ủy ban Kinh tế
I./.Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, Quốc hội Khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 56/2006/QH11 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010. Đánh giá kết quả 5 năm qua, Ủy ban Kinh tế cơ bản tán thành Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp này.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, bình quân 5 năm đạt 7%, mặc dù thấp hơn so với kế hoạch đề ra nhưng vẫn là mức tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong bối cảnh bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đưa nước ta gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ổn định giá cả thị trường là một trong những giải pháp mà Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị cần ưu tiên (Ảnh: Laodong.vn) |
Đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với quốc tế; kết quả giảm nghèo nhanh được thế giới đánh giá cao. Các chính sách bảo đảm an sinh xã hội đã phát huy hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hóa thông tin có bước phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Những hạn chế, yếu kém trong báo cáo đã đề cập đầy đủ, toàn diện. Uỷ ban Kinh tế đề nghị cần phân tích, đánh giá sâu sắc hơn một số vấn đề sau:
Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc huy động NSNN giai đoạn vừa qua đạt quá cao 28,4%/GDP so với kế hoạch 21%-22%/GDP đã làm giảm tích lũy của doanh nghiệp và người dân.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 42,7%/GDP vượt xa kế hoạch làm mất cân đối lớn giữa đầu tư và tiết kiệm, dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và làm gia tăng nợ quốc gia.
Hiệu quả nền kinh tế giai đoạn 2006-2010 giảm so với giai đoạn trước: Giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội 39%/GDP, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%, trong khi đó giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội 42,7%/GDP nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân thấp hơn chỉ đạt 7%. Hệ số ICOR giai đoạn 2001-2005 là 5,1 tăng lên 6,3 giai đoạn 2006-2010.
Kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc, đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh trong khi hầu hết các đồng tiền khác đều lên giá so với USD, lạm phát tăng cao, dư nợ tín dụng tăng nhanh, thâm hụt thương mại, nhập siêu kéo dài, bội chi ngân sách trong nhiều năm ở mức cao, nợ công tăng đã đến ngưỡng an toàn trong khi hiệu quả đầu tư công thấp, đặt ra những lo ngại về quản lý và trả nợ trong trung hạn và dài hạn.
Các vấn đề xã hội như: Phạm tội, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình gia tăng có vụ rất nghiêm trọng, tai nạn, ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, khiếu kiện xảy ra ở nhiều nơi gây bức xúc trong nhân dân.
Chất lượng giáo dục - đào tạo chuyển biến còn chậm; tình trạng quá tải tại các bệnh viện trung ương chưa giảm, trong khi chất lượng khám chữa bệnh ở tuyến dưới còn thấp. Đời sống và việc làm của người lao động bị ảnh hưởng do lạm phát, giá cả tăng cao. Giảm nghèo chưa thực sự bền vững.
Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ có những giải pháp mạnh mẽ sớm khắc phục hiệu quả các hạn chế, yếu kém do nguyên nhân chủ quan như báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội.
II. Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2011
Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với báo cáo của Chính phủ về những kết quả đạt được năm 2011.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế những tháng cuối năm 2010 và 2 tháng đầu năm 2011, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành kịp thời các chủ trương, giải pháp ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
Sau 9 tháng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá xu hướng những tháng còn lại của năm 2011, kinh tế nước ta đã đạt được một số kết quả cơ bản như sau:
Nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 5,8% - 6%, những vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô trong những tháng đầu năm 2011 bước đầu đã chuyển biến theo hướng tích cực.
Chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất ngân hàng giảm dần những tháng gần đây, xuất khẩu dự kiến cả năm đạt 31,6% cao so với chỉ tiêu 10% theo Nghị quyết của Quốc hội.
Nhập siêu, bội chi ngân sách được kiểm soát thấp hơn chỉ tiêu đề ra, thị trường ngoại hối từng bước ổn định, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện.
Thu ngân sách vượt so với dự toán, nhờ tăng thu nên khả năng bội chi ngân sách đạt dưới 4,9%GDP, giảm 0,4% GDP so với kế hoạch.
An sinh xã hội về cơ bản được bảo đảm, nhất là ở khu vực nông thôn. Một số địa phương có cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn đã thâm canh, tăng vụ tận dụng và phát huy được lợi thế khi nhu cầu và giá nông sản phẩm thế giới tăng cao. Sản xuất nông nghiệp được mùa, được giá, đặc biệt đạt mức cao về sản lượng, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có khả năng xuất khẩu gạo 7 triệu tấn, góp phần quan trọng ổn định xã hội và đời sống của người nông dân.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người có thu nhập thấp giảm bớt khó khăn do tác động của lạm phát và thiên tai; nhờ chỉ đạo sát sao và triển khai kịp thời của các ngành, các cấp nên không xảy ra tình trạng thiếu đói trên diện rộng, kể cả ở các vùng bị thiên tai, dịch bệnh, vùng núi cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Công tác chăm sóc sức khỏe có bước tiến bộ, các chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội về chăm sóc sức khỏe, dân số như: giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em; số giường bệnh/10.000 dân; tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý; chỉ tiêu giảm sinh đều đạt kế hoạch đề ra.
Quy mô và mạng lưới giáo dục tiếp tục được mở rộng. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ được quan tâm, thị trường khoa học, công nghệ có bước phát triển.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", Chương trình xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo, bước đầu tạo không khí phấn khởi trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; vị thế của nước ta trong quan hệ quốc tế tiếp tục được tăng cường. Các vấn đề biên giới, lãnh thổ trên đất liền, trên biển và hải đảo được giải quyết phù hợp theo pháp luật quốc tế.
Những kết quả đạt được nêu trên thể hiện sự quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các cấp và cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng thuận, cùng chia sẻ khó khăn của các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, chưa đảm bảo tính ổn định và bền vững, nhất là trong tình hình kinh tế thế giới tiếp tục còn diễn biến phức tạp, khó lường và nền kinh tế trong nước bộc lộ khó khăn ngày càng sâu sắc hơn.
Bên cạnh những hạn chế, yếu kém mang tính cơ cấu, tích tụ từ những năm trước, những khó khăn mới phát sinh do tác động mặt trái của việc thực thi các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, những hạn chế trong chỉ đạo, điều hành cần phải được tập trung khắc phục sớm trong thời gian tới, cụ thể:
Trong số 6/22 chỉ tiêu dự báo không đạt theo Nghị quyết của Quốc hội, trong đó chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn năm 2010 và chỉ số giá tiêu dùng tăng cao so với chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội và mục tiêu điều hành của Chính phủ, lạm phát cao ngoài nguyên nhân tác động giá cả thế giới tăng còn nguyên nhân do việc tăng giá nhiều mặt hàng trong nước cùng một lúc như điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than và điều chỉnh tỷ giá.
Những chỉ báo về giảm điện năng tiêu thụ và tăng lượng hàng tồn kho là những tín hiệu đầu tiên cảnh báo nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc và nếu kéo dài sẽ tác động xấu đến phục hồi tăng trưởng.
Một số chỉ tiêu tuy đạt hoặc vượt kế hoạch, nhưng thiếu vững chắc như: Thu ngân sách nhà nước đạt cao so với dự toán và so với số đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ I có nguyên nhân chủ yếu từ việc giá tăng của thị trường thế giới; tỷ lệ huy động so với GDP đang ở mức cao. Nhập siêu có xu hướng giảm nhưng số tuyệt đối vẫn còn lớn gây áp lực lên thị trường ngoại hối.
Các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thực hiện một cách đồng bộ, nhất là cắt giảm đầu tư công chưa nhiều và chưa công khai các công trình kém hiệu quả.
Năm 2011, trong điều kiện lạm phát tăng cao, đời sống người dân, nhất là bộ phận người dân nghèo, người thu nhập thấp gặp nhiều khó khăn. Việc nhiều doanh nghiệp hạn chế hoặc ngừng sản xuất do điều kiện kinh doanh khó khăn đã ảnh hưởng đến mục tiêu giải quyết việc làm.
Tình hình tai nạn giao thông xảy ra rất nghiêm trọng, nhiều vụ thảm khốc. Tình trạng ùn tắc giao thông tại Hà Nội và TP HCM diễn ra ngày càng gay gắt, nhưng chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả.
Việc cho thành lập nhiều trường đại học và nâng cấp trường cao đẳng thành trường đại học nhưng chưa đủ điều kiện về giảng viên, cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy dẫn đến nhiều bất cập. Một số địa phương thực hiện chưa nghiêm túc kỳ thi tốt nghiệp phổ thông vừa qua sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Vấn đề vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn còn diễn ra gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Nạn buôn bán, sử dụng ma tuý, mại dâm, cờ bạc, tội phạm hình sự nghiêm trọng, tình trạng chống người thi hành công vụ diễn ra với chiều hướng tăng; mặc dù chính quyền các cấp có biện pháp ngăn chặn nhưng nạn chặt phá rừng vẫn còn xảy ra.
Một số nhà máy, bệnh viện xả nước thải, rác thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu gây ô nhiễm nặng môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe và gây bức xúc trong nhân dân.
Từ những kết quả đạt được và qua đánh giá, phân tích về những hạn chế, yếu kém của kinh tế-xã hội 9 tháng đầu năm 2011, Ủy ban Kinh tế đồng tình với các nhận định tình hình và các giải pháp cần triển khai thực hiện trong thời gian tới của Chính phủ, đồng thời đề nghị tiếp tục thực hiện quyết liệt hơn nữa mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Trong điều hành chính sách những tháng cuối năm 2011 cần đặc biệt chú ý đến một số vấn đề sau:
Xử lý tốt mối quan hệ giữa lạm phát, tỷ giá và lãi suất trong đó ưu tiên kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá, tiếp tục kiểm soát tăng trưởng dư nợ tín dụng ở mức thấp và điều chỉnh cơ cấu tín dụng phục vụ sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu.
Tăng cường thanh tra, giám sát tính an toàn hệ thống tổ chức tín dụng. Sử dụng nguồn tăng thu ngân sách năm nay chủ yếu để giảm bội chi ngân sách, dự phòng tăng chi bảo đảm an sinh xã hội và khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, dịch bệnh phát sinh ngoài dự toán.
Kiểm tra và xử lý tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, dừng đầu tư đối với dự án qua kiểm tra xét thấy không hiệu quả và có biện pháp xử lý dứt điểm. Tiếp tục các biện pháp giảm nhập siêu, cùng với các biện pháp tăng xuất khẩu cần kiểm soát hiệu quả để giảm nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.
III. Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2015 và năm 2012
Ngay năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường; nợ công, lạm phát, thất nghiệp, bất ổn về chính trị - xã hội trở thành vấn đề mang tính toàn cầu.
Trong quan hệ quốc tế, xu thế chính những năm tới đây vẫn là hợp tác và phát triển nhưng cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia. Biến đổi khí hậu sẽ tác động tiêu cực đến sự phát triển.
Bối cảnh đó đang đặt nền kinh tế nước ta trước những khó khăn, thách thức lớn hơn so với những dự báo hồi đầu năm 2011.
Ý kiến chung của Ủy ban Kinh tế cho rằng, về cơ bản, những diễn biến mới đã được Đại hội Đảng lần thứ XI nhận định và dự báo, do vậy hầu hết ý kiến tán thành với Báo cáo của Chính phủ về giữ các mục tiêu và định hướng đã được Đại hội Đảng thông qua, đồng thời đề nghị, để phù hợp với diễn biến mới của tình hình, việc tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch 5 năm cần được tập trung quyết liệt hơn và có bước đi phù hợp.
Căn cứ vào kết quả đạt được về phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, trong các năm sau, cần có phương án cụ thể để phấn đấu nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch chung 5 năm.
Ủy ban Kinh tế đề nghị quan điểm chỉ đạo cụ thể như sau: Trong 2-3 năm đầu kế hoạch tập trung thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng ở mức hợp lý và tiến hành bước khởi động mạnh mẽ tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; 2-3 năm tiếp theo nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện cơ bản công tác tái cơ cấu để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Ủy ban Kinh tế nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về việc xây dựng các chỉ tiêu giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, môi trường và quán triệt quan điểm bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội trong cả điều kiện khó khăn nhất, đồng thời có ý kiến về một số chỉ tiêu chủ yếu như sau:
1./.Về tốc độ tăng trưởng kinh tế: với tiềm lực kinh tế nước ta và kinh nghiệm điều hành kinh tế vĩ mô những năm qua, cùng với việc triển khai quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và tiến hành triển khai 3 đột phá chiến lược.
Ủy ban Kinh tế nhất trí phương án tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm khoảng 6,5%-7%, phấn đấu đạt cận dưới của chỉ tiêu Đại hội Đảng.
Theo dự báo và đánh giá của các chuyên gia hầu hết, các nền kinh tế trên thế giới đã lường trước được mức độ bất ổn vĩ mô và có những biện pháp thực hiện quyết liệt trong năm 2011.
Cùng với kết quả bước đầu quan trọng thực hiện Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 11 của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 phấn đấu đạt khoảng 6%-6,5% là có cơ sở nếu phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
2. Về chỉ số giá tiêu dùng: Năm 2011, lạm phát tiếp tục ở mức cao, năm 2012 dự báo sẽ có ít khả năng xảy ra biến động lớn về giá hàng hóa thế giới. Do vậy, đề nghị phải kiểm soát bằng được chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức 1 con số trong năm 2012 phấn đấu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức thấp nhằm nâng cao lòng tin của xã hội, là cơ sở để ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao tốc độ, chất lượng tăng trưởng trong những năm sau.
Kế hoạch 5 năm 2011-2015 dự kiến áp dụng các giải pháp quyết liệt để phát triển sản xuất, tăng tổng cung của nền kinh tế, điều tiết giảm tổng cầu nhất là giảm tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP, giữ ổn định mức phát hành trái phiếu Chính phủ, phân bổ tập trung, sử dụng hiệu quả hơn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tốc độ tăng dư nợ tín dụng.
Do vậy, đề nghị năm 2013 và 2014 kiểm soát CPI dưới 6%-7% và từ 5% đến dưới 7% vào năm 2015, làm cơ sở kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng bình quân trong Kế hoạch 5 năm tiếp theo dưới 5%/năm như các nước có nền kinh tế phát triển ổn định khác.
3. Về nhập siêu: Ủy ban Kinh tế thấy rằng, bằng việc áp dụng nhiều giải pháp mạnh mẽ, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm mạnh, từ mức 29,2% năm 2007 giảm xuống mức 28,8% năm 2008, xuống 22,5% năm 2009, 17,5% năm 2010 và khoảng 10%-11% năm 2011.
Mặc dù tỷ lệ nhập siêu giảm mạnh trong 4 năm gần đây nhưng quy mô còn rất lớn là một trong những nguyên nhân gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Để thực hiện mục tiêu tiến tới cân bằng kim ngạch xuất, nhập khẩu trước năm 2020, trên cơ sở kết quả giảm tỷ lệ nhập siêu những năm qua, đề nghị cần kiên quyết kiểm soát nhập siêu theo hướng giảm dần cả tỷ lệ tương đối (%) lẫn số tuyệt đối hàng năm.
Ngoài việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với tăng cường kiểm soát nhập khẩu trong Kế hoạch 5 năm, cần tập trung triển khai phát triển công nghiệp hỗ trợ; quy định việc chi tiêu mua sắm, đầu tư công phải sử dụng những hàng hóa, thiết bị, máy móc đã sản xuất được trong nước và thực hiện hiệu quả cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam".
4. Bội chi ngân sách nhà nước: Chính phủ đề nghị bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2015 giảm xuống 4,5%GDP. Bội chi NSNN theo cách tính hiện nay bao gồm cả chi trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Theo cách tính này thì bội chi năm 2010 là 5,53%. Nếu cộng cả vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện trong năm khoảng 51,6 nghìn tỷ đồng thì bội chi ngân sách khoảng 8,14%GDP. Nếu tính theo thông lệ quốc tế (không bao gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán) thì bội chi ngân sách năm 2010 khoảng 7%GDP.
Mặc dù ngân sách nhà nước vẫn bảo đảm khả năng trả nợ đến hạn, nhưng mức bội chi ngân sách nhà nước đã tăng mạnh gần đây, do đó, cần có giải pháp sử dụng vốn hiệu quả hơn gắn với khả năng trả nợ. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu trong thời gian tới tính bội chi ngân sách theo thông lệ quốc tế, năm 2015 phấn đấu giảm xuống dưới 4,5%GDP.
5. Về cân đối cán cân thanh toán quốc tế, vay và trả nợ nước ngoài: Dự báo 5 năm tới, cán cân thanh toán quốc tế tổng thể thặng dư 18 tỷ USD theo phương án 1 và 27 tỷ USD theo phương án 2. Trong khi nền kinh tế còn nhập siêu cao việc dự báo, tính toán cán cân tổng thể thặng dư và tăng dự trữ ngoại hối lên 12-15 tuần nhập khẩu là cần thận trọng, có giải pháp cụ thể, khả thi. Do đó, nếu chấp nhận giảm mạnh nhập siêu theo đề nghị của Ủy ban Kinh tế thì cần có tính toán thật cụ thể về từng phương án để báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Về vay và trả nợ nước ngoài, trước tình hình diễn biến phức tạp về nợ công của các nước, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) gần đây đã cảnh báo các nước cần tăng cường quản lý trần nợ công dưới 60%GDP, thậm chí các nước đang phát triển dưới 40%GDP. Trong điều kiện nợ công nước ta cuối năm 2011 ước lên đến 58,9%GDP, tuy nhiên chưa thể giảm ngay để tránh ách tắc việc triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc triển khai các đột phá chiến lược và tiếp tục đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, hộ nghèo và các vùng thường xuyên bị thiên tai.
Ủy ban Kinh tế nhất trí dư nợ công năm 2012 không quá 60%GDP, đến năm 2015 không quá 65%GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55%GDP, dư nợ quốc gia không quá 40%GDP. Việc sử dụng các nguồn vốn vay này cần phải được tính toán hết sức chặt chẽ, đầu tư phải mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rộng lớn và xây dựng phương án giảm nợ công bắt đầu từ năm 2016.
Ngoài các chỉ tiêu nêu trên, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tăng đầu tư, có giải pháp thực hiện giảm hộ nghèo 2%/năm và các huyện, xã nghèo giảm bình quân 4%/năm và phấn đấu tạo việc làm mới 1,6 triệu người/năm.
6. Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội đã tiếp thu nhiều ý kiến tại phiên họp thứ 2 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các báo cáo thẩm tra.
Ủy ban Kinh tế nhất trí 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển các ngành, lĩnh vực và cơ cấu nền kinh tế trong Báo cáo của Chính phủ, đồng thời đề nghị một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và năm 2012 như sau:
1./. Tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Tái cơ cấu đầu tư công, giảm tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội; có cơ chế, chính sách định hướng và tạo điều kiện tiếp tục xã hội hóa đầu tư, giảm áp lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, khuyến khích hình thức công tư kết hợp. Nâng cao chất lượng và tính bền vững của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiên quyết không thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá. Sớm nghiên cứu, sửa đổi cơ chế, chính sách quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng địa phương trong vùng kinh tế, tạo sự liên kết giữa các vùng; bố trí hợp lý các khu kinh tế, khu công nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng; chú trọng các vùng kinh tế trọng điểm tạo sự lan tỏa và tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các vùng còn khó khăn.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nhất là các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng. Rà soát và điều chỉnh đồng bộ các chính sách đất đai, thuế, tín dụng, lao động, thị trường để thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong 10 năm tới Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất phải ưu tiên giữ 3,8 triệu ha diện tích đất lúa, gắn với ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các địa phương và nông dân trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực lâu dài, có tính đến tác động biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu Quốc gia, chương trình xây dựng nông thôn mới góp phần thay đổi lớn diện mạo nông thôn nhất là các vùng miền núi cao, vùng đồng bào dân tộc.
Tái cơ cấu thị trường tài chính mà trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng tính an toàn hệ thống, giảm dần tỷ trọng dư nợ tín dụng so với GDP; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư từ thị trường vốn nhằm ngày càng minh bạch kết quả hoạt động và tài chính doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các công ty chứng khoán và cơ cấu số lượng công ty chứng khoán phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường chứng khoán; tăng hiệu quả hoạt động bảo hiểm; kiểm soát hiệu quả các quỹ đầu tư, ngăn chặn hiện tượng đầu cơ lũng đoạn thị trường.
Tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó trọng tâm tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nhằm nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp để lực lượng này trở thành công cụ dẫn dắt thị trường theo mục tiêu phát triển của Nhà nước. Xây dựng lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính; rút dần nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư), bất động sản và chấm dứt chậm nhất vào năm 2015. Các doanh nghiệp phải tăng cường tính minh bạch tài chính và kết quả hoạt động góp phần tăng tính an toàn của nền kinh tế; tăng khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ trực tiếp đời sống nhân dân, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động.
Rà soát cơ cấu lại thu - chi ngân sách nhà nước một cách hợp lý, tăng đầu tư cho con người, bố trí nguồn lực đáp ứng thực hiện cải cách tiền lương, đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm soát nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia, bảo đảm cơ cấu nợ hợp lý và trong giới hạn an toàn. Kiên trì giảm bội chi ngân sách để đảm bảo sự bền vững tài khoá trong dài hạn.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, trong đó cần tập trung đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn để có kỹ năng cần thiết khi chuyển sang làm việc ở khu vực công nghiệp và dịch vụ; đồng thời đẩy mạnh đào tạo mới và đào tạo lại để nâng cao năng suất lao động trong toàn bộ nền kinh tế. Sử dụng có hiệu quả nhất thời kỳ lao động độ tuổi vàng và xem đây là một lợi thế quan trọng của đất nước.
2./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đề nghị quan tâm:
Đối với chính sách tài khóa: Trong những năm tới, nghiên cứu các phương án để điều chỉnh giảm dần mức thuế thu nhập doanh nghiệp. Đổi mới chính sách thu từ đất đai, thu kinh doanh bất động sản, tăng mức thu thuế tài nguyên.
Đối với chính sách tiền tệ: Mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng tương thích với tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng. Ban hành khuôn khổ pháp lý chặt chẽ đối với thị trường vàng, thị trường ngoại hối.
Đối với chính sách xuất - nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu: Trong các năm 2012-2013 tiếp tục chính sách khuyến khích xuất khẩu, xây dựng hàng rào kỹ thuật hợp lý để hạn chế nhập khẩu, áp dụng các giải pháp giảm mạnh nhập siêu, tiếp tục đầu tư vào các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm có lợi thế quốc gia, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, chế tạo, thực hiện cơ chế giá thị trường đối với giá điện, than chậm nhất vào năm 2013.
Thực hiện các giải pháp giảm dần chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư: Ngoài việc cân đối lại đầu tư, cần phát động và duy trì phong trào tiết kiệm toàn xã hội cả trong sản xuất và tiêu dùng, tạo ý thức xã hội chung và tính gương mẫu trong toàn thể cán bộ, công chức. Đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tạo chuyển biến mạnh trong ý thức tiêu dùng xã hội phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
3./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp thực hiện các đột phá chiến lược: Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với cải cách thể chế kinh tế trên cơ sở sửa đổi Hiến pháp, Luật đất đai, Luật ngân sách nhà nước, Luật đầu tư công, mua sắm công, các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước. Tăng cường vai trò và khả năng phối hợp của các Bộ, ngành; khẩn trương rà soát, điều chỉnh việc phân công, phân cấp quản lý nhà nước theo lĩnh vực và địa giới hành chính hiện nay theo hướng phân định rõ về trách nhiệm quyết định của trung ương và địa phương, phân cấp cho địa phương phải đi đôi với tăng cường sự hướng dẫn, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, nâng cao chế độ trách nhiệm cá nhân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có chất lượng cao, phát triển và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ nhằm tăng giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ; hỗ trợ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; tăng giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm chủ lực của các ngành kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của đất nước.
Tập trung đầu tư tuyến đường bộ phục vụ các vùng động lực kinh tế, phát triển nhanh hệ thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng các đô thị lớn gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân cư. Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của ba cảng biển lớn ở ba khu vực. Chú trọng củng cố và hoàn thiện hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ hiện có phù hợp với dự báo về biến đổi khí hậu; các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tránh bão cho tàu thuyền để giảm nhẹ thiệt hại.
4./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an sinh xã hội: Rà soát tổng thể các chính sách an sinh xã hội, trọng tâm là củng cố mạng lưới an sinh xã hội với 3 nội dung: an sinh về việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chính sách hỗ trợ cho nhóm đối tượng bảo trợ xã hội. Nhà nước có chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách xã hội, hộ nghèo, cận nghèo bị tác động bởi việc tăng giá xăng, dầu, điện, than theo lộ trình.
Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục trách nhiệm công dân, tăng khả năng thực hành của học sinh, sinh viên. Hoàn thiện và triển khai quy định của pháp luật về phát triển giáo dục mầm non. Áp dụng đồng bộ các chính sách nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ phát triển giáo dục phổ thông, quan tâm hơn nữa đến đào tạo nghề để giảm áp lực cho đào tạo đại học, tập trung đào tạo nghề ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi để từng bước tăng năng lực nội sinh nhằm nâng cao khả năng hấp thụ các nguồn lực đầu tư.
Nghiên cứu, sửa đổi Luật dược, Luật bảo hiểm y tế, Luật bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh người có công cho phù hợp với thực tiễn. Tăng chi y tế và tập trung hỗ trợ để mua bảo hiểm y tế, nâng mức hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo lên 70%-80% (hiện nay là 50%) và các hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Tiếp tục phát hành trái phiếu đầu tư cho y tế, nhưng tập trung có trọng điểm đối với bệnh viện đang xây dựng dở dang, ưu tiên cho khu vực miền núi, vùng khó khăn.
5./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về môi trường: Tăng cường cơ chế, chính sách, biện pháp nhất là trồng, bảo vệ rừng. Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các tài nguyên khác. Sớm công bố Chương trình quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng từng vùng, địa phương và kế hoạch triển khai cụ thể để người dân yên tâm và chủ động phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại đáng tiếc xảy ra. Tập trung đẩy mạnh khắc phục ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề, bệnh viện, thường xuyên thanh tra, kiểm tra kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm.
6./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về quốc phòng-an ninh, đối ngoại: ưu tiên nguồn lực bảo đảm tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đường tuần tra biên giới nhằm bảo đảm tuần tra, bảo vệ đường biên và tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh vùng biên giới; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là trên các vùng biển, đảo của tổ quốc. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tăng cường công tác đối thoại, giải thích chính sách, quản lý thông tin, giải quyết kịp thời các vụ khiếu kiện, các vấn đề xã hội bức xúc, tạo sự đồng thuận, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo lập môi trường tốt nhất cho phát triển đất nước.
7./. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và phòng chống tham nhũng: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, khắc phục những hạn chế trong hoạt động tư pháp; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức; xử lý kiên quyết hành vi chống người thi hành công vụ. Áp dụng đồng bộ các biện pháp mạnh để phòng, chống quan liêu, xử lý nghiêm khắc tham nhũng, góp phần tăng lòng tin nội bộ và nhân dân.
Trên đây là báo cáo thẩm tra về KT-XH, Ủy ban Kinh tế xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định./.