VEPR: Việt Nam khó đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%/năm 5 năm tới
VOV.VN - Theo Viện VEPR, mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%-7%/năm của Việt Nam là rất tham vọng, khó khả thi.
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) vừa công bố Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2016, trong đó có nhận định: mục tiêu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 đặt ra 6,5%-7%/năm là rất tham vọng, khó khả thi.
Mục tiêu tăng trưởng rất tham vọng
TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, nhấn mạnh: Giai đoạn 2011-2015, Việt Nam chứng kiến sự thất bại trong việc thực hiện 10/26 chỉ tiêu kinh tế xã hội do Quốc hội đề ra, mà đa số các chỉ tiêu này liên quan đến năng suất của toàn nền kinh tế. Trong vòng 5 năm tới, Việt Nam cũng sẽ đối mặt với nhiều thách thức trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế.
Cụ thể, trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 của Đảng ta đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam bình quân đạt 6,5%-7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3.200-3.500 USD. Câu hỏi đặt ra là liệu các mục tiêu tăng trưởng này có đạt hay không?
Nhóm nghiên cứu của VEPR đã dùng phương pháp hạch toán tăng trưởng để dự báo tăng trưởng kinh tế nước ta giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, tăng trưởng kinh tế được dự báo theo đóng góp của việc tích lũy các yếu tố đầu vào sản xuất là vốn, lao động và đóng góp của việc tăng năng suất nhân tố tổng hợp.
Kết quả dự báo của VEPR đưa ra 27 kịch bản đối với tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2016-2020. Tại kich bản cơ sở, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ ở mức 5,56%/năm. Đây là tình huống nền kinh tế không có nhiều đột phá và tình hình quốc tế được coi như ổn định.
Đối với trường hợp điều kiện quốc tế kém thuận lợi và các biện pháp cải cách kinh tế không được thực hiện thành công, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ đạt khoảng 5,09%/năm. Trong trường hợp hiệu quả nền kinh tế được cải thiện mạnh mẽ cùng với môi trường quốc tế thuận lợi, chính phủ có điều kiện huy động thêm các nguồn lực quốc tế, thì tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức bình quân khoảng 6,96%/năm.
Với các kịch bản có khả năng xảy ra cao, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có xu hướng hội tụ ở mức bình quân vào khoảng 6%/năm. Tính toán này của nhóm tác giả tương đối nhất quán với mức dự báo của IMF (2016) cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020.
Từ kết quả phân tích, TS. Thành đánh giá: “Mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%-7%/năm là rất tham vọng, khó khả thi trong điều kiện cấu trúc và môi trường thể chế như hiện nay, đi liền với khuynh hướng suy yếu và tính bất trắc của tổng cầu nền kinh tế thế giới”.
Thêm vào đó, nhóm nghiên cứu cũng ước lượng trung bình thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đến năm 2020 sẽ chỉ nằm trong khoảng 2.756 – 3.219 USD, thấp hơn mục tiêu 3.200 – 3.500 USD được đưa ra trong Văn kiện Đại hội Đảng XII.
Trong giai đoạn 2016 -2020, tăng trưởng về vốn vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng hình thành nên tốc độ tăng trưởng sản lượng chung của nền kinh tế, đặc biệt khi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đủ tiềm năng để bứt phá nhờ việc tham gia các hiệp định thương mại tự do kiểu mới như TPP, EVFTA, AEC.
Phải tinh giản bộ máy hành chính
Theo nhóm nghiên cứu, “cải thiện môi trường kinh doanh, xóa bỏ các rào cản là những định hướng chính sách quan trọng nhất để thu hút, phát huy tối đa tác dụng của dòng vốn này. Điều này phải được nhấn mạnh đặc biệt trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư công khá eo hẹp và tỷ lệ tiết kiệm nội địa trong nước đã đạt ngưỡng bão hòa so với tương quan thu nhập đầu người”.
TS. Thành còn cho rằng, những cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa để phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn cũng cần phải được thực hiện rất gấp rút nhằm nâng cao hiệu suất vốn xã hội và năng suất tổng hợp của nền kinh tế.
Bởi theo Viện trưởng VEPR, “Việt Nam hiện đang tiêu tốn quá nhiều nguồn lực cho hoạt động thiếu hiệu quả của khu vực hành chính công bành trướng và kém hiệu quả, thể hiện ở tỷ lệ chi thường xuyên ở mức cao trong tổng chi ngân sách và trong GDP. Gánh nặng chi thường xuyên cho bộ máy ngân sách hiện đã lớn hơn tổng nguồn thu ngân sách, dẫn tới một phần nguồn vốn vay phát triển phải bị chia sẻ để cho các mục đích chi thường xuyên. Quy mô vay nợ bắt buộc phải tăng lên và gây ra hiệu ứng lấn át tới nền kinh tế”.
Các chuyên gia của VEPR cho rằng, chu kỳ kinh tế 2016 -2020 được thừa hưởng nền tảng vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát thấp và nền kinh tế không bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố dòng vốn nóng như các quốc gia khác trong khu vực. Tuy nhiên, nền tảng thực sự của nền kinh tế còn yếu. Trong đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng chưa thực sự lành mạnh và minh bạch; tình trạng bội chi ngân sách tăng nhanh trong giai đoạn trước sẽ là một trong những rủi ro lớn nhất mà chu kỳ kinh tế này phải đối mặt.
Cho nên, TS. Thành khuyến nghị: “Cải cách cần phải theo hướng tinh giản bộ máy hành chính, nâng cao tỷ lệ tiết kiệm chính phủ, gia tăng nguồn lực được phân bổ đến khu vực tư nhân”./.