Giữ gìn gốc Việt
Quận Cam trở thành 1 trong 2 quận trên toàn nước Mỹ có trường dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, tương tự tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp trong các cộng đồng di dân khác
Nỗ lực duy trì gốc rễ
… Giống như những thanh thiếu niên gốc Việt khác, Kristi Tươi gặp khó khăn trong việc trò chuyện với bố mẹ. Rời Việt Nam lúc 3 tuổi, hầu như cô đã quên hết tiếng mẹ đẻ, trong khi đó, ba mẹ cô chẳng bao giờ muốn học tiếng Anh. Kristi Tươi, học sinh lớp 12 trường Bolsa Grande tại Garden Grove, nói: “Chúng tôi gặp rắc rối khi cuộc trò chuyện kéo dài. Chúng tôi không thể hiểu nhau”. Trong khi đó, bà Mary Nguyễn tâm sự rằng, mình không hề biết nơi làm việc của con gái. Họ không bao giờ nói về chuyện học tập hay bạn bè của cô, thậm chí những việc lặt vặt như tối nay ăn gì.
Nếp sống văn hoá trong môi trường Mỹ đã tạo ra khoảng cách trong tư duy và tất nhiên thể hiện trong sinh hoạt. Tươi không ăn món cá kho hoặc thịt heo mẹ nấu mà xin 5USD để chạy ra cửa hàng KFC. Mary Nguyễn nói: “Nó sống hệt như một người Mỹ. Tôi luôn phát điên vì nó. Sao mà nó phải tốn tiền để ăn tiệm mỗi ngày?”. Bà tin chắc rằng cô con út đã trở thành người Mỹ mất rồi. Mỗi khi nói chuyện với cô con út, bà phải nhờ anh chị của nó dịch lại! Thật may, vấn đề chưa đến nỗi bế tắc, khi cộng đồng bắt đầu vào cuộc.
Đối mặt với khoảng cách văn hoá đang lớn dần giữa ba mẹ nhập cư và con cái, một số trường khu vực, chẳng hạn Garden Grove Unified và Huntington Beach Union bắt đầu tổ chức chương trình dạy tiếng Việt cho học sinh trung học gốc Việt. Và quận Cam trở thành một trong hai quận trong toàn nước Mỹ có trường dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, tương tự tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp trong các cộng đồng di dân khác.
Tại San Jose, chương trình Việt ngữ bắt đầu từ năm 1992, sau khi nhiều phụ huynh người Việt than phiền chuyện con cái họ quá Tây và đánh mất văn hoá truyền thống. Rào cản ngôn ngữ quá lớn khiến họ không thể có được buổi trò chuyện về những đề tài cơ bản nhất với đám con sinh ra và trưởng thành tại Mỹ. Tại quận Cam, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống nhiều nhất, những lớp học tiếng Việt dần được ưa chuộng. Người ta phải tăng thêm giáo viên cũng như mở thêm lớp. Song cũng tồn tại không ít khó khăn: không có chương trình dạy cụ thể, giáo án và sách giáo khoa cũng không, thêm vào đó là tình trạng giáo viên khan hiếm…
Cần nói thêm, Chính phủ Mỹ hiện nỗ lực từng bước đưa các lớp ngoại ngữ vào hệ thống trung học, nhằm giúp học sinh đón đầu thời cuộc trong môi trường toàn cầu hoá. Tại Washington DC, tiếng Arabic được đưa ra như một lựa chọn không bắt buộc. Tiếng Hàn Quốc và Tagalog được đề nghị tại Los Angeles; và ở Palo Alto, người ta đưa ra tiếng Quan thoại. Việc đa dạng hoá ngôn ngữ tại Mỹ hiện thời là ảnh hưởng của sự kiện 11/9/2001, khi Mỹ nhận ra tính bức xúc của việc hiểu các nền văn hoá nước ngoài – như nhận định từ Marty Abbott, giám đốc Hội đồng Mỹ về giảng dạy tiếng nước ngoài tại Alexandria (bang Virginia).
Thực tế cho thấy, có quá nhiều thanh niên gốc Việt đổ xô theo lối sống phương Tây; và rào cản ngôn ngữ tiếp tục dẫn tới nhiều áp lực, mâu thuẫn thế hệ trong gia đình. Các bậc phụ huynh gọi đám thanh niên lai văn hoá Mỹ là mất gốc. Việc thiếu giao tiếp giữa Tươi và ba mẹ đã gây ra nhiều cuộc cãi vã. Bà Nguyễn có lần viết cho con lá thư bày tỏ nỗi khổ tâm (bà phải nhờ giáo viên dịch giùm!).
Trong khi đó, Tươi nói rằng mình bị khủng hoảng đến mức bỏ nhà ra riêng. “Thật khó lưu loát cả hai ngôn ngữ” – Tươi nói. Không chỉ ngôn ngữ mà còn cách sống. Bà Nguyễn hẳn phải rất “đau lòng” khi thấy cô con út “khoan” hai lỗ ở mỗi vành tai, luôn bận áo thun hở rốn, xí xố tiếng Anh và cười hăng hắc với cô bạn nào đó qua điện thoại. “Tôi được bao quanh bởi lối sống phương Tây và tất cả những gì tôi làm đều mang văn hoá Mỹ” – Tươi nói tiếp. Do đó, chẳng có gì lạ khi cô suốt ngày mở CD nghe nhạc rap của Usher và Ludacris, hý hoáy gửi tin nhắn cho tụi bạn và trải qua ngày cuối tuần ngắm mây trôi ở khu giải trí Pac Sun và American Eagle. Cái tên “Đinh Kim Tươi” cũng được đổi thành “Kristi Dinh” khi Dinh nhập tịch Mỹ năm 2000.
Bắt đầu từ tiếng Việt
Từ khi tung ra chương trình tiếng Việt năm 1992, San Jose hiện có hơn 800 học sinh học tiếng Việt tại 6 trong 12 trường phổ thông địa phương. Hy vọng đạt thành công tương tự, phụ huynh và thầy cô tại quận Cam cũng vận động hành lang ba năm qua cho việc mở lớp tiếng Việt.Trung học Westminster mở lớp tiếng Việt đầu tiên năm 2002 và nhu cầu tăng nhanh cũng dẫn đến việc thành lập các lớp tiếng Việt tại hai trung học Bolsa và La Quinta. Trung học Garden Grove cũng mở lớp tiếng Việt đầu tiên vào tháng 9/2006.
Ông Nguyễn Quốc Lân - Chủ tịch Hội đồng giáo dục khu vực trung học Garden Grove cho biết, học thêm ngôn ngữ sẽ giúp học sinh dễ tìm việc. Lượng thông dịch viên tiếng Việt đang thiếu hụt. Nếu không đầu tư tiếng Việt cho cộng đồng người Việt, thảm hoạ sẽ xảy ra trong 5 – 10 năm tới, khi chẳng còn ai giỏi tiếng Việt, và mỗi khi cần, người ta bắt buộc phải “nhập khẩu” người biết tiếng Việt (!) - theo ông Lân.
Tại các lớp tiếng Việt, học sinh bắt đầu bằng việc học cấu trúc câu, từ vựng, văn hoá và lịch sử Việt Nam. Trong lớp của cô Nguyễn Quỳnh Trang tại Bolsa Grande, một học sinh đọc to câu tiếng Việt “Cô ấy trông rất đẹp”. Khi cô Trang đề nghị dịch, một học sinh đã chuyển ngữ sang tiếng Anh “She looks hot”. Cô Trang cười hỏi: “Thế à? Ngoài trời thực sự nắng phải không?” và cả lớp cười nghiêng ngả.
Rồi cô Trang giải thích: “Ở Việt Nam, chúng ta sử dụng từ tương đương nghĩa “Pretty, very pretty” và câu trên phải hiểu tương đương “She is very pretty”. Học sinh trong lớp cô Trang đa phần là bọn trẻ Mỹ gốc Việt, nói tiếng Anh như gió nhưng tiếng Việt thì chỉ bập bẹ vài câu thông thường. Không ít trong số đó sinh ra tại Mỹ và nhiều em thích đổi sang tên Mỹ hơn tên Việt. Vy thành Shayla, Thanh biến thành Tiffany hoặc Trà Giang trở thành Natali.
Hồi nhỏ, Alice Phạm dùng dằng không chịu đi học tiếng Việt ở nhà thờ, nhưng cuối cùng phải khuất phục trước sức ép của ba mẹ. Sau đó, gia đình đăng ký cho Alice học tiếng Việt tại Bolsa Grande. Mẹ Alice kể: “Tôi không bao giờ tưởng tượng được lớp học tiếng Việt đã ảnh hưởng tích cực đến con bé nhiều như vậy. Bây giờ, nó khác hẳn”. Alice, 15 tuổi, sinh tại Los Angeles, từng thích bánh mỳ McDonald’s, giờ bắt đầu ghiền món ăn Việt. Ở nhà, Alice nói tiếng Việt và thậm chí đọc báo tiếng Việt để giải trí. Có được điều này không dễ, đặc biệt trong tình trạng không đủ giáo viên có bằng cấp giảng dạy tiếng Việt cũng như văn hoá và lịch sử Việt Nam. Một số giáo viên toán được trưng dụng dạy tiếng Việt. Chương trình tiếng Việt cho cộng đồng người Việt còn gặp khó khăn bởi quá mới nên thiếu ngân sách trầm trọng. Hơn nữa, chính quyền cấp bang chưa thực sự quan tâm.
Giáo viên thường sử dụng giáo trình cũ, được thiết kế dành cho người Việt bản xứ và họ phải tự soạn giáo án. Tất cả đều phụ thuộc và trông cậy vào sự sáng tạo độc lập của từng giáo viên. Vài học sinh đến lớp chỉ đơn giản vì có đám bạn thân của mình ở đó. Vài đứa khác, dân Mỹ chính cống, học tiếng Việt như một sự đầu tư có tính toán. Jerry Hernander, 14 tuổi ở Bolsa Grande, học tiếng Việt chỉ để sau này mở một cửa hàng tại địa điểm có nhiều người Việt sống. Dạy tiếng Việt đã khó, dạy văn hoá càng khó hơn. Thầy Dzung Bach cho biết, ông luôn tận dụng mọi cơ hội để nhắc học sinh chúng là ai, nhưng đôi khi thầy có cảm giác chúng không còn là người Việt…
Đối với Tươi và ba mẹ cô, lớp tiếng Việt là cơ hội cuối cùng để xây dựng mối quan hệ gia đình. Sự hiểu lầm giữa họ dẫn tới ngờ vực và rốt cuộc là lảng tránh nhau. Cuối cùng, bà Mary Nguyễn đành áp dụng “luật thép” đối với các con: “Nói tiếng Việt hoặc không nói gì cả” và sự khuôn phép của bà Mary Nguyễn đã khiến cô gái ý thức hơn về giá trị bản thể dân tộc. Bây giờ, khi ra khỏi nhà, Tươi thường nói với ba mẹ bằng tiếng Việt: “Thưa ba má con đi”, thay vì chỉ nhép miệng vỏn vẹn từ “bye”.
Mỗi khi không hiểu gì đó trong tiếng Việt, Tươi nhờ anh chị trong nhà giúp đỡ. Trong thư gửi cho mẹ bằng tiếng Việt, Tươi viết: “Mẹ ơi, đừng nghĩ xấu về con. Mẹ hãy tin rằng con sẽ thành công. Chắc chắn con không làm mẹ thất vọng!”./.