Bệnh loãng xương: kẻ giết người thầm lặng
Khi khối lượng xương giảm đến 30% thì mới có các biểu hiện trên lâm sàng.
Bệnh loãng xương là hiện tượng tăng phần xốp của xương do giảm số lượng tổ chức xương, giảm trọng lượng trong một đơn vị thể tích mà hậu quả là gãy xương một cách tự nhiên hoặc sau một chấn thương rất nhẹ, đặc biệt là sự lún một hay nhiều đốt sống gây biến dạng cột sống.
Loãng xương thường tiến triển rất âm thầm. Nó được ví như “một kẻ giết người thầm lặng” vì chỉ khi khối lượng xương giảm đến 30% thì mới có các biểu hiện trên lâm sàng. Có những trường hợp chỉ đến khi gãy xương mới được phát hiện có loãng xương. Rất đáng tiếc khi đã có gãy xương thì tình trạng loãng xương đã rất nặng.
Tập thể dục, vận động giúp giảm nguy cơ loãng xương (Ảnh minh hoạ) |
Vì sao bị loãng xương?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh loãng xương. Tuy nhiên có thể tới một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Tuổi: Tuổi càng cao mật độ xương càng giảm. Ở người già có sự mất cân bằng giữa sự tạo xương và huỷ xương, chức năng của các tế bào tạo xương bị suy giảm là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất xương ở người già. Một nguyên nhân thứ hai dẫn tới sự mất xương ở người già là sự suy giảm hấp thu canxi ở ruột và sự giảm tái hấp thu canxi ở ống thận. Tham gia vào hấp thu canxi ở ruột có vai trò của tiền vitamin D, là một chất được tổng hợp từ ánh sáng mặt trời mà ở người già thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thường giảm.
Khối lượng xương đỉnh: Là khối lượng của mô xương lúc kết thúc giai đoạn trưởng thành. Trong quá trình phát triển, sự tạo xương lớn hơn sự mất xương, khối lượng xương tăng dần để đạt tới giá trị tối đa được gọi là khối lượng xương đỉnh. Thường tốc độ hình thành xương cao ở xung quanh tuổi dậy thì, đạt độ đỉnh ở tuổi 30. Khối lượng xương đỉnh ở tuổi trưởng thành là một trong những yếu tố quyết định khối lượng xương của cơ thể. Hai yếu tố quan trọng quyết định sự khác nhau của khối lượng xương đỉnh là yếu tố di truyền và mức canxi trong chế độ ăn.
Cân nặng và chiều cao: Ở những người nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh hơn và tần suất gãy cổ xương đùi và xẹp đốt sống do loãng xương cao hơn. Ngược lại, cân nặng cao là một yếu tố bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông qua việc tăng tạo xương. Cũng như cân nặng, chiều cao cũng ảnh hưởng đến mật độ xương. Những người tầm vóc nhỏ có khối xương thấp hơn nên dễ có nguy cơ loãng xương.
Yếu tố dinh dưỡng: Dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của bộ xương. Như trên chúng tôi đã trình bày chế độ ăn không đầy đủ canxi sẽ ảnh hưởng đến sự đạt được đỉnh cao của khối xương và sự mất xương sau này. Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh với hai ly sữa giàu canxi mỗi ngày có tốc độ mất xương chậm hơn rõ rệt so với không uống sữa. Ở những nước đang phát triển, chế độ ăn quá giàu chất đạm không tương xứng với lượng canxi được đưa vào cơ thể là một trong những nguyên nhân làm giảm khối lượng xương. Thói quen uống rượu, hút thuốc lá cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới khối lượng xương.
Yếu tố vận động: Sự giảm vận động ở những người lớn tuổi là một yếu tố nguy cơ dẫn đến sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự tạo xương và tăng khối lượng xương.
Tình trạng mãn kinh: Ở phụ nữ sự mất xương xuất hiện sớm hơn từ 15 – 20 năm so so với nam giới do hậu quả của sự suy giảm chức năng buồng trứng một cách nhanh chóng sau mãn kinh. Người ta cũng thấy khối lượng xương thấp và tốc độ mất xương nhanh ở những phụ nữ bị cắt bỏ buồng trứng (mãn kinh do phẫu thuật).
Các bệnh lý gây loãng xương: Các bệnh cường giáp, suy giáp, cường cận giáp, cường tuyến thượng thận, đái tháo đường, cắt dạ dày ruột, rối loạn tiêu hoá kéo dài, suy thận, xơ gan, các bệnh khớp mạn tính…
Các yếu tố khác: Việc sử dụng một số thuốc như corticoid, thuốc lợi tiểu, thuốc chống đông kéo dài. Người ta cũng đề cập đến yếu tố di truyền, tình trạng sinh nở…
Những ai có nguy cơ bị loãng xương?
Qua những nguyên nhân đã nêu trên những đối tượng sau sẽ có nguy cơ loãng xương cao:
Những người có thể trạng bé nhỏ, cân nặng thấp thì nguy cơ loãng xương cao hơn so với những người to béo.
Những phụ nữ sau mãn kinh 6 đến 8 năm hoặc mãn kinh sớm trước 45 tuổi hoặc bị phẫu thuật cắt bỏ tử cung buồng trứng nên đi kiểm tra đo mật độ xương vì khả năng loãng xương lúc này rất cao.
Những người có chế độ dinh dưỡng không đầy đủ canxi, vitamin D hoặc chế độ dinh dưỡng quá nhiều protein, những người uống rượu, hút thuốc nhiều đều có nguy cơ loãng xương cao.
Nếu trong gia đình có bố hoặc mẹ bị loãng xương các con sẽ có nguy cơ bị loãng xương do yếu tố di truyền.
Những người mắc các bệnh gây loãng xương như đã nêu ở phần 2, những người phải nằm bất động lâu ngày cũng có nguy cơ bị loãng xương.
Những người phải sử dụng thuốc corticoid, thuốc chống đông, lợi tiểu kéo dài cũng cần phải được điều trị dự phòng loãng xương từ sớm.
Biểu hiện và hậu quả của loãng xương là gì?
Loãng xương thường tiến triển trong thời gian dài mà không có triệu chứng gì biểu hiện ra bên ngaòi. Các triệu chứng chỉ xuất hiện khi tình trạng loãng xương đã nặng, chúng thường xuất hiện đột ngột sau sang chấn nhẹ hoạc có thể xuất hiện từ từ tăng dần. Sau đây là các triệu chứng thường gặp:
Đau: Thông thường loãng xương gây đau xương và đó là triệu chứng chính. Thường đau ở các vùng xương chịu tải của cơ thể (cột sống thắt lưng, chậu hông), đau nhiều sau chấn thương, thường âm ỉ nếu là tự phát. Đau tăng khi vận động, đi lại, đứng ngồi lâu, giảm khi nghỉ ngơi. Trong bệnh loãn xương không có biểu hiện đau các khớp, bởi vậy khi có các biểu hiện đau khớp thì cần nghĩ tới bệnh khác đặc biệt là bệnh thoái hoá khớp là bệnh cũng rất hay gặp ở người già.
Có thể có các dấu hiệu chèn ép rễ thần kinh như đau dọc theo các xương sườn, đau dọc mặt trong đùi, đau dọc mặt ngoài chân… nhưng hiếm khi gây liệt.
Giảm chiều cao của cơ thể là một trong những triệu chứng gợi ý của loãng xương. Mỗi một đốt sống xẹp hoàn toàn có thể làm chiều cao của cơ thể giảm 1cm và trong những trường hợp nặng khi nhiều đốt sống bị xẹp chiều cao của cơ thể có thể giảm từ 10 – 20cm bởi vậy việc theo dõi chiều cao từ khi còn trẻ là rất cần thiết.
Biến dạng cột sống: cột sống bình thường cong hình chữ S. Khi các đốt sống bị xẹp có thể gây mất đường cong sinh lý của cột sống như gù ở vùng lưng, thắt lưng, gù ở mức độ nặng gây tình trạng còng lưng. Có thể cột sống ở thắt lưng quá ưỡn về phía trước do trượt đốt sống.
Gãy xương là hậu quả nặng nề do loãng xương gây ra. Có thể gãy ở mọi vị trí tuy nhiên thường hay gặp gãy đầu dưới xương cẳng tay, gãy các đốt sống, gãy cổ xương đùi. Gãy cổ xương đùi thường gặp ở nam giới trene 70 tuổi trong khi gãy đầu dưới xương cẳng tay và gãy các đốt sống thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh từ 10 –20 năm. Thường gãy xương do loãng xương xảy ra sau một sang chấn rất nhẹ, có thể chỉ do sự thay đổi tư thế đột ngột, có những trường hợp do ho hoặc hắt hơi mạnh.
Trên đây là những biểu hiện của bệnh loãng xương, tuy nhiên các triệu chứng này cũng không hoàn toàn đặc hiệu cho bệnh loãng xương do chúng có thể biểu hiện trong nhiều bệnh khác. Bởi vậy các triệu chứng trên chỉ có tính chất gợi ý cho chẩn đoán loãng xương. Muốn khẳng định chẩn đoán người bệnh cần phải được kiểm tra bằng những phương pháp đo mật độ xương.
Làm thế nào để chẩn đoán loãng xương?
Bằng thăm khám và hỏi bệnh khó khẳng định được chẩn đoán loãng xương trừ khi người bệnh có gãy xương tự nhiên.
Để chẩn đoán loãng xương có nhiều phương pháp. Trước khi, khi chưa có phương pháp đo mật độ xương người ta chẩn đoán loãng xương dựa vào chụp Xquang xương bàn tay và cột sống hoặc dựa vào một số xét nghiệm. Phương pháp chụp Xquang có ưu điểm là đơn giản, chi phí thấp, có thể thực hiện được cả những cơ sở y tế tuyến dưới tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là chẩn đoán loãng xương muộn, khi chất lượng khoáng đã giảm từ 30 – 50% thì trên Xquang mới rõ. Các xét nghiệm để chẩn đoán loãng xương là phương pháp phức tạp ít được áp dụng để chẩn đoán loãn xương thường quy.
Từ khi phương pháp đo mật độ xương ra đời nó đã trở thành phương pháp phổ biến nhất để chẩn đoán loãng xương. Cho tới nay, phương pháp đo mật độ xương bằng tia X năng lượng kép (DEXA) tại hai vị trí cột sống thắt lưng và đầu tiên xương đùi được xem là có độ tin cậy cao. Một số bệnh viện đã được trang bị loại máy này như ở Hà Nội có Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện E, Bệnh viện K… ở thành phố Hồ Chí Minh có Bệnh viện Chợ Rẫy… một số tỉnh thành khác cũng đang dần được trang bị./.