Lý do Điều 5 không thể giúp Ukraine cho dù gia nhập NATO
VOV.VN - Ukraine vẫn nỗ lực gia nhập NATO nhưng tư cách thành viên trong liên minh này sẽ không đảm bảo Kiev được hỗ trợ nhiều hơn hiện nay, kể cả khi viện dẫn Điều 5.
Mỹ và các đồng minh chủ chốt bao gồm Anh và Đức vẫn đang tranh luận về mức độ cam kết đối với nỗ lực gia nhập NATO của Ukraine. Theo tờ The Telegraph của Anh, đầu tuần này, Mỹ và Đức đã từ chối kế hoạch của châu Âu nhằm cung cấp cho Ukraine một con đường “không thể đảo ngược” để gia nhập liên minh quân sự, thay vào đó đưa ra một “cam kết nhẹ nhàng hơn” và không có mốc thời gian cụ thể.
Ukraine đã nhiều lần kêu gọi phương Tây chấp nhận cho nước này gia nhập NATO. Tuy nhiên, ngay cả khi trở thành thành viên NATO, Ukraine cũng sẽ không được đảm bảo rằng liên minh quân sự này sẽ triển khai binh sĩ trên thực địa hoặc hỗ trợ nhiều hơn những gì Kiev đang nhận được hiện nay.
Điều 5 của Hiệp ước NATO nói gì?
Nhiều người cho rằng Điều 5 của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương chắc chắn cam kết các thành viên sẽ hỗ trợ quân sự nếu một trong số họ bị tấn công. Tuy nhiên, theo các học giả, chuyên gia pháp lý và nghị sĩ Mỹ, trên thực tế thì không phải như vậy.
Điều 5 nói rằng: “Các Bên đồng ý rằng một cuộc tấn công vũ trang chống lại một hoặc nhiều nước trong số họ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các bên và do đó họ đồng ý rằng, nếu một cuộc tấn công vũ trang như vậy xảy ra, mỗi bên, thực hiện quyền quyền tự vệ cá nhân hoặc tập thể được công nhận trong Điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, sẽ hỗ trợ Bên hoặc các Bên bị tấn công bằng cách hành động nếu thấy cần thiết, bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương”.
Mặt khác, Điều 11 của NATO giải thích thêm rằng, “các điều khoản hiệp ước sẽ được các Bên thực hiện phù hợp với quy trình hiến pháp tương ứng của họ”.
Điều đó có nghĩa là việc quyết định xem liệu có giải cứu đồng minh hay không và sẽ làm như thế nào sẽ tùy thuộc vào từng quốc gia thành viên NATO và cơ quan lập pháp của họ
Trong một bài viết trên Conversation tuần trước, ông Dan Reiter, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Emory và ông Brian Greenhill, phó giáo sư tại Đại học Albany thuộc Đại học Bang New York cho rằng: “Mỹ và các nước phương Tây khác có thể đứng ngoài cuộc xung đột liên quan đến một quốc gia NATO mà không cần phải phá vỡ cam kết liên minh của họ. Ngôn ngữ của hiệp ước NATO có những kẽ hở để các nước thành viên có thể đứng ngoài cuộc chiến của các thành viên khác trong một số tình huống nhất định”.
Các học giả nhấn mạnh đến thực tế là mặc dù hiệp ước đặt ra khả năng sử dụng lực lượng quân sự trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công từ bên ngoài, nhưng nó “không có định nghĩa rõ ràng về ‘cuộc tấn công vũ trang’ thực sự là gì”.
Điểm này đã từng cho phép NATO lập luận rằng một hành động bạo lực chống lại một thành viên không nhất thiết “đủ” để định nghĩa đó là một “cuộc tấn công vũ trang”.
Theo học giả Reiter và Greenhill, các thành viên NATO “chỉ chính thức viện dẫn Điều 5 một lần” sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc.
Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia thành viên NATO đã chọn không gửi quân tới Afghanistan khi Mỹ tuyên chiến với Taliban. Những nước không tham gia “cuộc chiến chống khủng bố” của Mỹ không bị coi là vi phạm hiệp ước của liên minh và cũng không bị trừng phạt hay bị loại khỏi liên minh.
Ngoài ra, theo các học giả, các thành viên NATO cũng từng viện lý do địa lý để đứng ngoài cuộc xung đột của đồng minh.
Khi Anh và Argentina gây chiến ở khu vực quần đảo Falkland vào năm 1982, Mỹ và các quốc gia NATO khác đã đề cập đến thực tế là hiệp ước của liên minh quy định việc khôi phục và duy trì an ninh ở “khu vực Bắc Đại Tây Dương”, trong khi Falkland là một quần đảo ở Nam Đại Tây Dương.
Điều 5 của NATO không đứng trên quyền lực của Quốc hội
Tháng 6/2023, Thượng nghị sĩ Rand Paul từng nói rằng quy định phòng thủ chung trong Điều 5 theo đó “một cuộc tấn công vào một thành viên là cuộc tấn công vào tất cả” sẽ không tự động dẫn đến phản ứng của quân đội Mỹ.
“Hiến pháp trao cho Quốc hội thẩm quyền duy nhất để xác định địa điểm và thời điểm triển khai binh sĩ đi chiến đấu. Chúng tôi không thể giao trách nhiệm đó cho tổng thống, tòa án, một cơ quan quốc tế hoặc các đồng minh của chúng tôi”, ông Paul nhấn mạnh khi đó.
Ngày 6/12/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden khi kêu gọi các nhà lập pháp Mỹ bật đèn xanh cho gói viện trợ bổ sung dành cho Ukraine đã tuyên bố rằng nếu nó không được phê duyệt thì “chúng ta sẽ phải đối mặt với thứ mà chúng ta không muốn: quân đội Mỹ chiến đấu với quân đội Nga — quân đội Mỹ chiến đấu với quân đội Nga nếu Nga di chuyển vào các khu vực khác của NATO”.
“Với tư cách là thành viên NATO, chúng tôi đã cam kết sẽ bảo vệ từng tấc lãnh thổ của NATO”, ông Biden nhấn mạnh.
Nga tuyên bố, các cáo buộc cho rằng nước này sẽ tấn công bất kỳ quốc gia thành viên NATO nào là vô lý. Tuy nhiên, ngay cả khi kịch bản như vậy xảy ra, việc Mỹ có triển khai lực lượng để bảo vệ đồng minh hay không sẽ tùy thuộc vào các nhà lập pháp Mỹ chứ không phải Tổng thống Biden.
Trung tâm Tư pháp Brennan (BCJ), một viện phi lợi nhuận về luật và chính sách công tại Trường Luật Đại học New York giải thích rằng: “Bất kỳ cuộc đối đầu quân sự nào giữa Nga và NATO chắc chắn sẽ có tính chất, phạm vi và thời gian đáng kể, do đó nó sẽ cần có sự cho phép của Quốc hội”.
Theo Nghị quyết về Quyền lực Chiến tranh năm 1973, việc Quốc hội cho phép sử dụng vũ lực “sẽ không được suy ra... từ bất kỳ hiệp ước nào trước đây hoặc sau này được phê chuẩn”.
Ukraine có thể nhận thêm viện trợ khi gia nhập NATO?
BCJ nhấn mạnh, nếu Điều 5 được viện dẫn thì bất kỳ quốc gia thành viên NATO nào cũng “có thể quyết định rằng thay vì đáp trả bằng vũ lực, họ sẽ gửi thiết bị quân sự cho các đồng minh NATO hoặc áp đặt các biện pháp trừng phạt” lên đối thủ.
Trên thực tế, hình thức hỗ trợ như vậy đã được thực hiện với Ukraine: các nước NATO gửi thiết bị quân sự cho Kiev và áp đặt các biện pháp trừng phạt đơn phương chống lại Nga và các đồng minh của Moscow.
Hơn nữa, theo nhiều thông tin rò rỉ, có lực lượng Hoạt động Đặc biệt của NATO được triển khai ở Ukraine. Liên minh này đang mở rộng sự can dự vào cuộc xung đột mặc dù Ukraine không phải là thành viên.
Thật khó để tưởng tượng chính quyền Ukraine hy vọng nhận được gì hơn nữa từ các đồng minh phương Tây khi gia nhập NATO vì họ dường như “không sẵn sàng chết vì Ukraine”.
Lời kêu gọi hồi tháng 2 của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron về việc không loại trừ khả năng triển khai quân của NATO không nhận được sự ủng hộ từ các thành viên khác.
“Vì vậy, khi tranh luận về chính sách của Mỹ đối với các đối tác liên minh - và liệu Washington có nên chấp thuận kết nạp các thành viên mới như Ukraine hay không - điều quan trọng là cả hai bên phải nhận thức được rằng các cam kết liên minh không hoàn toàn mang tính ràng buộc, về mặt pháp lý hoặc chính trị”, học giả Reiter và Greenhill kết luận.