Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh - Sống và viết như một nhân chứng lịch sử
VOV.VN - Cuộc đời nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh như ông tự thú “không chỉ có vinh quang mà còn có không ít đắng cay, kể cả tai nạn nghề nghiệp và những hệ lụy”.
Nhà báo Trần Mai Hạnh sinh năm 1943, quê Hải Dương, tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội), sau đó làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam. Năm 1996, ông được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa 8 và khóa 9, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 10. Ông nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, kiêm Tổng biên tập báo Nhà Báo và Công Luận.
Từng là nhà báo chiến trường, nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh đã có mặt ở nhiều điểm nóng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông là người chứng kiến và viết bài tường thuật đầu tiên về giờ phút lịch sử ở Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Thời mới cầm bút sáng tác, Trần Mai Hạnh đoạt giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1970 - 1971. Ông có một số tác phẩm như “Nắng Thu Bồn”, “Tình yêu và án tử hình”, “Sụp đổ và tự thú”, “Ngày tận thế”, “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75”, “Lời tựa một tình yêu”, “Thời tôi sống”. Trong đó, tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” từng được dịch ra tiếng Anh, giành giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2014, giải thưởng Văn học ASEAN năm 2015.
Trên đường thăm chiến trường xưa, vào ngày đầu tháng 4, nhà văn, nhà báo Trần Mai Hạnh đã đột ngột qua đời, hưởng thọ 81 tuổi. Vĩnh biệt ông, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn có bài “Nhà báo Trần Mai Hạnh – Sống và viết như một nhân chứng lịch sử”.
Nhà báo Trần Mai Hạnh là một trong số ít phóng viên Việt Nam có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa 30/4/1975. Bài tường thuật của nhà báo Trần Mai Hạnh có tên gọi “Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” truyền về Thông tấn xã Giải Phóng và được phát sóng trong chương trình thời sự đặc biệt ngày 1/5/1975 trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Đồng thời, bài tường thuật của nhà báo Trần Mai Hạnh cũng được đăng trang trọng trên báo Nhân Dân số ra ngày 2/5/1975, với tựa đề được đổi thành là “Tiến vào Phủ Tổng thống Ngụy”.
Với tư cách một nhân chứng lịch sử, ngay sau ngày non sông liền một dải, nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh đã viết hai cuốn sách “Sụp đổ và tự thú” và “Ngày tận thế”. Tuy nhiên, với độ lùi năm tháng, Trần Mai Hạnh có thêm nhiều suy nghiệm sâu sắc hơn, và ông quyết định viết tiểu thuyết tư liệu “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” xuất bản năm 2014.
Gần chục năm nghiền ngẫm và chấp bút “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75”, nhà báo Trần Mai Hạnh tâm niệm: “Những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần, cũng như đời mỗi con người chỉ sống có một lần. Nhưng để hiểu hết chân giá trị của lịch sử, để hiểu đúng một con người lại cần có thời gian, nhiều khi không thể chỉ đánh giá một lần. Lịch sử và cuộc sống luôn là một dòng chảy liên tục, bất tận. Trong cuộc sống hiện tại ngày hôm nay có nền tảng và những giá trị tinh thần vô giá của quá khứ, đồng thời nó cũng chứa đựng mầm mống và sức sống mãnh liệt của tương lai”.
“Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” chia làm 19 chương khá mạch lạc. Không gian tác phẩm bắt đầu từ Noel năm 1974 và kết thúc bằng sự an bài dành cho những tướng lĩnh và chính khách Việt Nam Cộng Hòa cũng như sự bẽ bàng của những người Mỹ nhúng tay can thiệp vào chiến tranh Việt Nam.
Tiểu thuyết tư liệu “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” của nhà báo Trần Mai Hạnh đã được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng Văn học các nước Đông Nam Á. Đến nay, “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” đã được dịch và xuất bản ở nhiều quốc gia như Lào, Cuba, Tây Ban Nha, Mỹ…
Cuộc đời nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh như ông tự thú “không chỉ có vinh quang mà còn có không ít đắng cay, kể cả tai nạn nghề nghiệp và những hệ lụy”. Thành đạt ở cả văn chương và báo chí, nhà báo Trần Mai Hạnh bày tỏ: “Với tôi, sự yên bình dễ tìm thấy trong sáng tạo văn chương hơn là trong hoạt động báo chí. Do vậy, nỗi niềm thân phận con người muốn gửi gắm cũng phải cậy nhờ đến ngôi đền văn chương thôi. Mặc dầu vậy, tôi vẫn rất yêu nghề báo, rất biết ơn sự cảm thông và ủng hộ của báo chí đối với mình. Tôi yêu nghề báo, vì nghề báo gắn với sự kiện. Nhà báo là người ghi chép lịch sử. Nhà báo không ký tên vào lịch sử, nhưng họ đã để lại tên tuổi của mình trong lịch sử chiến công của người khác”.
Trên hành trình cầm bút, nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh còn có được một gia đình đồng lòng cộng hưởng, với vợ là nhà thơ Bùi Kim Anh, các con Trần Mai Anh và Trần Mai Linh đều theo nghề báo. Bản lĩnh của nhà báo Trần Mai Hạnh là ông không vì trắc trở ân tình hoặc bội bạc nhân gian, mà nguội lạnh tin yêu hoặc thay đổi thái độ với con đường mình đã dấn thân: “Tôi có quan niệm, lịch sử là tự nó diễn ra. Lịch sử là sự thật. Không phải anh thắng thì nói thế nào cũng được, mà anh thua thì muốn nói thế nào cũng được. Nếu có tranh cãi nhau, cũng phải tranh cãi bằng sự thật!”.
Nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh đã sống và viết tư cách một nhân chứng lịch sử đích thực. Trang viết giống như một mật khẩu của ông với cuộc đời, trang viết cũng giống như một mật khẩu của cuộc đời đối với ông. Ngay cả ở giai đoạn thất thế và lẫm lũi, nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh cũng không rời bỏ cây bút bằng một quan niệm tích cực: “Với tôi, cuộc đời thật vô cùng và nó vẫn luôn ở phía trước. Không ai gặp toàn những điều may mắn. Con người rốt cuộc phải vươn lên trong cuộc đời này giữa tổng hoà những điều may mắn và không may mắn, kể cả những oan trái, tai hoạ để cất bước. Cái gì cũng có giá của nó cả”.