Đảng và sứ mệnh giải phóng
Hơn 80 năm kể từ khi có Đảng đến nay, dấu ấn đậm nét và bao trùm nhất đối với dân tộc Việt Nam là sự giải phóng
Chính Đảng do Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc sáng lập và rèn luyện để hiện thực hóa giấc mộng thôi thúc Người rời bến Nhà Rồng, ra đi “tìm hình của nước” cách đây đúng một trăm năm, đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam làm nên những cuộc giải phóng kỳ vĩ.
Đó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công - nông. Hào quang mà nó tạo ra rõ ràng đã làm sâu đậm thêm một phẩm chất nổi trội của dân tộc Việt - đó là tình yêu tự do, tinh thần bất khuất, kiên cường trước cường quyền. Cuộc giải phóng lần 1 này đi đến kết quả vào năm 1975, đã mở ra một trường kỳ mới: trường kỳ phấn đấu vì mục tiêu cao nhất là giải phóng con người, được thể hiện rất xúc tích bằng 3 chữ vàng trên Quốc hiệu của nước Việt Nam mới, đó là: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Nếu cứ 25 năm, lại có thêm một thế hệ mới ra đời, thì trong đúng một thế hệ vừa qua (tính từ năm 1986), Việt Nam đã bắt đầu một cuộc giải phóng lần 2 rất thành công. Đó là quá trình giải phóng tư duy, giải phóng năng lực sáng tạo và mọi nguồn lực của quốc gia để tạo ra một sức bật kinh tế mang tầm vóc lịch sử. Công cuộc giải phóng này lại tiếp tục ghi dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời và số phận của mỗi người Việt Nam.
Truyền thống lịch sử và tiềm năng kinh tế (kết quả của 2 cuộc giải phóng vừa nêu) đến nay đã tạo ra cho đất nước và dân tộc một vị thế quốc tế chưa từng có.
Kết quả này chứng minh bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản lĩnh ấy thể hiện ở những quyết định sáng tạo trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp. Bản lĩnh ấy cũng thể hiện ở thái độ thẳng thắn, chân thành thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm với quyết tâm sửa chữa, khắc phục vì đã có lúc đưa đất nước rơi vào những khúc quanh co, suy thoái, khủng hoảng.
Những thời điểm mà sự nghiệp cách mạng có những đột phá, hay đất nước có những bước tiến ngoạn mục cho thấy: Đường lối, chính sách của Đảng thời kỳ đó đã đáp ứng được nguyện vọng của cả dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại. Đường lối chính sách ấy được xây dựng và triển khai thực hiện bởi những người Cộng sản thực sự là đại diện tiêu biểu của tinh hoa trí tuệ và tinh thần dân tộc - những người biết đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên lợi ích cá nhân mình và dám vì nó mà hy sinh, phục vụ.
Mỗi kỳ Đại hội Đảng đều tạo ra những dấu ấn đặc biệt, quan trọng, với sự phát triển của đất nước và với lịch sử dân tộc.
Đã qua một thế hệ đổi mới, chúng ta mới chứng kiến những thành quả đầu tiên của một cuộc trường kỳ giải phóng con người. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều năm trở lại đây và cả năm 2010 vừa qua, tất cả các cuộc thăm dò dư luận do các tổ chức quốc tế độc lập tiến hành đều cho kết quả: người Việt Nam nằm trong nhóm những quốc gia có chỉ số lạc quan cao nhất thế giới.
Nhân dân lạc quan vào tương lai, còn những người cầm quyền và Đảng cầm quyền lại phải trăn trở nhiều hơn; đồng thời nhìn thấy trước những thách thức đang đặt ra, những lực cản đang kìm hãm sự đi lên của đất nước. Giải phóng mọi năng lực sáng tạo, khai mở những tiềm năng nội sinh của cả dân tộc để phát triển là mong đợi của toàn Đảng, toàn dân.
Những người nông dân và công nhân mong có một công việc ổn định, một môi trường sống trong lành, một tương lai tốt đẹp hơn cho con cháu họ.
Các trí thức mong có một môi trường khoa học minh bạch, nơi họ được phát huy hết trí tuệ và năng lực của mình và được đãi ngộ xứng đáng.
Các doanh nhân mong có một môi trường kinh doanh thông thoáng, ổn định và được hậu thuẫn tối đa khi đi chinh phục thị trường thế giới.
Cả xã hội mong muốn có một môi trường dân chủ - công bằng - văn minh, một nước Việt Nam dân thực giàu, nước thực mạnh.
Tất cả những mong đợi ấy, khát vọng ấy, niềm tin ấy xin gửi trọn vào Đại hội và từng vị đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI./.