Đền bù ở thủy điện An Khê- Ka Nak

Trách nhiệm hay của bố thí?

Công trình thủy điện An Khê- Ka Nak, trên sông Ba, địa phận tỉnh Gia Lai, đã hòa lưới điện quốc gia vừa tròn một năm, nhưng người dân tại làng Groi vẫn sống trong quẫn bách…

Công trình thủy điện An Khê- Ka Nak, trên sông Ba, địa phận tỉnh Gia Lai, hoàn thành khâu di dời, giải tỏa từ năm 2005 để bắt đầu xây dựng. Đến thời điểm này thì thủy điện đã hòa lưới điện quốc gia vừa tròn một năm, nhưng đời sống, sản xuất của hơn 50 hộ dân, với gần 600 nhân khẩu ở làng Groi, thị trấn Kbang, huyện Kbang - những người đã nhường đất xây dựng thủy điện lại ngày một quẫn bách vì việc đền bù, bố trí lại đất sản xuất chưa được giải quyết dứt điểm.

Hàng trăm ý kiến người dân đã được chuyển lên chính quyền các cấp, phản ánh về sự thiếu trách nhiệm của chủ đầu tư (Ban Quản lý thủy điện 7); UBND huyện Kbang đã nhiều lần tổ chức cuộc họp giữa chính quyền, Ban Quản lý thủy điện 7 và người dân địa phương, nhưng sự việc ở làng Groi vẫn không được giải quyết .

Trước đây, khi chưa bị thu hồi đất để xây dựng thủy điện An Khê- Ka Nak, làng Groi có nhiều đất sản xuất, người dân cũng chăm chỉ làm lụng, nên nhiều gia đình có của ăn của để, mua sắm được máy cày phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, ti vi, xe máy phục vụ cho cuộc sống. Thế nhưng kể từ năm 2005, Ban Quản lý thủy điện 7 thu hồi hầu hết diện tích đất ở và đất sản xuất, di dời người dân về làng tái định cư, khiến cuộc sống thường nhật của các hộ gia đình nơi đây hết sức khó khăn.

Thủy điện An Khê- Ka Nak, trên sông Ba, địa phận tỉnh Gia Lai

Ông Đinh Văn Kép, ở làng Groi, thị trấn Kbang cho biết: “Làng Groi trước đây cũng có đất làm, nhưng từ khi xây thủy điện thì khó khăn về đường đi, đất làm. Giờ cũng chỉ biết nhờ Nhà nước cấp đất cho mình chỗ nào tốt là được”.

Đất sản xuất không có, nhiều trẻ em phải nghỉ học để cùng cha mẹ ra sông Ba mò cua, bắt ốc bán lấy tiền đong gạo, mua muối. Thế nhưng sông Ba cũng bị chặn dòng phục vụ thủy điện, giờ cũng cạn kiệt. Những khi có nước thì bị ô nhiễm bởi dầu máy và dòng nước đục ngầu, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, cá tôm không sống nổi.

Ông Đinh Vích, ở làng Groi, thị trấn Kbang chia sẻ: “Ở đây trước là cá lớn, cá nhỏ, tôm đều có hết. Bây giờ làm thủy điện nước có mùi hôi, cá tôm… cũng không có. Bên cạnh đó, trước đây Nhà nước nói với làng Groi là hỗ trợ gạo ăn 5 năm nhưng cũng không thấy đâu…”.

Khu nhà tái định cư tại xã Đăk Smar (huyện Kbang) nhìn khang trang nhưng chủ đầu tư không bố trí đất vườn quanh nhà để phù hợp với tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số.

Để tìm hiểu thêm thực tế cuộc sống của người dân ở làng Groi, thị trấn Kbang, phóng viên Đài TNVN đã cùng ở với người dân trong làng suốt hai ngày đêm. Thực tế cho thấy, trong làng chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em. Còn đàn ông đang đi làm rẫy hoặc làm thuê ở cách làng hơn 40km, mãi tận xã Đăk Sơ Ma, huyện Kbang. Trên mâm cơm của các hộ trong làng, chỉ có cơm, lá sắn, nước mắm và măng rừng. Nhưng để có bữa ăn này, bà con đã phải vay lãi mới có tiền đong gạo.

Chị Đinh Pel, làng Groi, thị trấn Kbang cho biết: “Đất làm không có. Bây giờ còn khổ hơn trước, đường đi cũng khó, làm không đủ ăn. Nếu Nhà nước cấp đất thì người dân làng Groi đều vui. Nếu không có thì sau này không biết làm ăn ở đâu”.

Cần phải nói rõ rằng, khi tổ chức thu hồi đất của dân, Ban Quản lý thủy điện 7 thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam có thông báo đến từng hộ dân là sẽ cấp bù đất chỗ khác để bà con sản xuất, ổn định đời sống. Thế nhưng đến nay lời hứa đất đổi đất vẫn chưa được thực hiện. Mặc dù UBND huyên Kbang đã nhiều lần tổ chức các cuộc họp với Ban Quản lý thủy điện 7, nhưng sự việc vẫn bế tắc.

Theo ông Võ Văn Phán, Phó Chủ tịch UBND huyện Kbang: “Trách nhiệm của địa phương phải giải quyết đất sản xuất, nhưng đây là vấn đề phức tạp phải có thời gian. Trước hết chúng tôi sẽ giải quyết đất sản xuất của dân. Nếu nói thờ ơ thì cũng chưa đến mức như vậy. Nhưng việc giải quyết vẫn còn chậm và trách nhiệm chưa cao khiến người dân suy nghĩ và lo lắng”.

Cũng tại buổi làm việc,  ông Võ Văn Phán còn cho biết thêm: Số tiền hỗ trợ 15 triệu đồng với mỗi hộ để đào tạo nghề và mua lương thực, đến thời điểm này, chưa có một người dân nào được nhận. Còn số tiền bồi thường đối với đất đã thu hồi, người dân cũng chưa nhận được bất kỳ một đồng nào.

Tuy nhiên khi đặt vấn đề làm việc với Ban Quản lý dự án thủy điện 7, thì đơn vị này luôn thoái thác với lý do bận việc. Còn việc đền bù cho người dân thì vẫn để đó, chờ xem xét.

Khi trao đổi qua điện thoại, ông Nguyễn Văn Tặng, Phó Ban quản lý thủy điện 7, Tập đoàn Điện lực Việt Nam lại đổ lỗi một phần cho địa phương: “Về thời gian thì việc này lệ thuộc vào 2 bên, chứ cũng không phải là một bên. Về mặt chủ quan mà nói, bên tôi là người thực thực hiện. Nhưng mà về mặt chế độ, chính sách, liên quan đến quản lý đất đai, liên quan đến người dân thì một phần cũng phụ thuộc vào bên huyện”.

Trước khi xây dựng, người dân Groi nhận được rất nhiều lời mật ngọt của Chủ đầu tư và Chính quyền địa phương. Nhưng khi họ nghe theo lời mật ngọt ấy, nhường đất xây dựng thủy điện, thì những lời hứa cũ đã bay theo gió. Trách nhiệm với cuộc sống của người dân, giờ được coi như thứ của bố thí, mà dân làng Groi buộc phải chờ đến phiên mình./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên