Đào tạo liên kết quốc tế ra đời như thế nào?
(VOV) -Tập đoàn Sungei Way Group (Malaysia) có lẽ chính là người đi tiên phong trong việc tổ chức các chương trình LKQT.
Một trong những chương trình liên kết quốc tế (LKQT) đầu tiên do đối tác nước ngoài cấp bằng ở Khoa Quốc tế - ĐHQGHN là chương trình Cử nhân kế toán liên kết đại học HELP (Malaysia). Lúc bấy giờ, vào năm 2004, Khoa Quốc tế - ĐHQGHN còn rất nhỏ bé, và nền giáo dục Malaysia vẫn bị người Việt Nam nhìn nhận với đôi chút xem thường. Ngày nay, Khoa Quốc tế - ĐHQGHN đã trở thành một đơn vị đào tạo tương đối lớn với hàng trăm cán bộ giảng dạy và nghiên cứu, với nhiều chương trình đại học và sau đại học, đặc biệt là những chương trình LKQT với các cường quốc giáo dục như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Australia.... Nhưng chương trình liên kết với Malaysia vẫn tỏ ra có sức cạnh tranh cao. Điều đó có thể làm nhiều người ngạc nhiên. Nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn, ta sẽ không còn ngạc nhiên về đó. Ta sẽ phải ngạc nhiên, và ngạc nhiên hơn, về những điều khác, đó là những thành tựu mà Malaysia đã đạt được trong lĩnh vực giáo dục đại học. Và trong số những điều đáng ngạc nhiên đó, có lẽ ít người biết rằng, chính người Malaysia, nói đúng hơn là người Malaysia gốc Hoa, đã phát minh ra hình thức LKQT trong giáo dục đại học mà ngày nay phổ biến khắp toàn cầu.
Sinh viên Khoa Quốc tế (ĐHQGHN) tốt nghiệp |
Trước hết là một vài số liệu lịch sử. Malaysia đến năm 1962 mới có trường đại học đầu tiên, vốn là một phân hiệu của University of Malaya, có trụ sở chính ở Singapore (nay là Đại học Quốc gia Singapore). Phải 7 năm sau, Malaysia mới có trường đại học thứ hai. Năm 1975 Malaysia chỉ có 5 trường đại học. Trong khi đó, năm 1975, ở miền Bắc Việt Nam đã có 30 trường đại học với 50.000 sinh viên (không kể cao đẳng) và miền Nam có 7 trường công và 7 trường tư với 166.000 sinh viên (số liệu của UNESCO, 1980). Nghĩa là khi đó Malaysia kém xa Việt Nam. Vậy mà chỉ 30 năm sau, họ vượt lên trước chúng ta rất xa. Hiện nay, trong khu vực ASEAN, chất lượng giáo dục đại học của họ chỉ thua kém Singapore. Chính phủ Malaysia đặt ra mục tiêu biến nước này thành một trung tâm đào tạo đại học của khu vực. Hiện nay, hàng năm, có hàng chục ngàn sinh viên nước ngoài đến học tại các trường đại học của Malaysia. Các trường đại học của Malaysia cũng nỗ lực vươn ra thế giới mà các chương trình LKQT với Khoa Quốc tế nói trên chỉ là một ví dụ cụ thể.
Bí quyết nào dẫn đến thành công ấy? Đó chính là chính sách khôn khéo của Thủ tướng Mahathir Mohammed, một chính sách không chỉ giúp khắc phục những hậu quả của sai lầm trong quá khứ, mà còn mở đường cho những giải pháp sáng tạo, trong đó trước tiên phải nói đến các chương trình LKQT.
Trường ĐH Help của Malaysia |
Câu chuyện diễn tra như thế nào? Sau khi giành được độc lập dân tộc (1957), nhằm củng cố bản sắc quốc gia, chính phủ Malaysia mới chủ trương coi tiếng Malay (Bahasa Melayu) của người bản địa, “bumiputeras” (“con của đất”), là ngôn ngữ quốc gia. Theo luật pháp, tất các các cơ sở giáo dục từ tiểu học đến đại học đều phải dùng tiếng Malay làm ngôn ngữ giảng dạy duy nhất. Song song với chính sách ngôn ngữ, chính phủ Malaysia thi hành Chính sách Kinh tế Mới (New Economic Policy) với nhiều ưu đãi cho người bumiputeras. Trong giáo dục, những người “bumiputeras” được hưởng nhiều ưu đãi hơn, như các loại học bổng và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra, chương trình giáo dục của Malaysia còn chứa đựng một số môn bắt buộc có nội dung lien quan đến Hồi giáo, là tôn giáo của người bumiputeras.
Tuy nhiên, người bumiputeras chỉ chiếm một đa số tối thiểu (năm 1957, họ chiếm 49.78% dân số, so với người Hoa - 37.1%, và người Ấn - 11.0%). Hai chính sách nói trên khiến người Hoa và ngưới Ấn bất mãn sâu sắc. Mẫu thuẫn đã từng dẫn đến xung đột năm 1969. Nhiều người Hoa và người Ấn không muốn học bằng tiếng Malay, vì thế những gia đình khá giả đều cho con du học. Nhưng không phải ai cũng có đủ khả năng tài chính để du học. Kết quả là số sinh viên người Hoa và người Ấn giảm nhanh chóng.
Bước ngoặt diễn ra vào năm 1996, khi Malaysia ban hành luật về "Cơ sở đào tạo đại học tư thục" (Private Higher Educational Institutions Act). Trước đó, Malaysia cũng chống thương mại hóa đại học. (Năm 1969, đề án thành lập trường đại học tư đầu tiên, Merdeka University, bị từ chối). Chính phủ Malaysia dưới thời Thủ tướng Mahathir Mohammed chủ trương áp dụng triệt để và tỉnh táo học thuyết Reagan-Thatcher vào giáo dục. Năm 2000, số trường tư (đại học và cao đẳng) đạt 704 trường, sau đó giảm bớt xuống 559 vào năm 2005 (trong tổng số 630 trường đại học và cao đẳng năm 2005). Hiện nay, số trường tư luôn vào khoảng 600.
Vì Chính phủ Malaysia bắt buộc các trường tư phải dạy bằng tiếng Malay nếu muốn cấp bằng Malaysia nên các trường tư của người Hoa và người Ấn sáng tạo ra một hình thức độc đáo. Họ liên kết với các trường đại học nổi tiếng của phương Tây, dạy bằng tiếng Anh và cấp bằng nước ngoài. Trường đại học HELP, đối tác Malaysia của Khoa Quốc tế, cũng khởi đầu với hình thức LKQT như vậy. Cái tên HELP vốn có nghĩa là Higher Education Learning Programmes (các chương trình đại học), trước khi đổi thành Higher Education Learning Philosophy (Triết lý học đại học) như ngày nay, khi HELP đã có cả các chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của riêng mình.
Education Learning Programmes, có nghĩa là "Các chương trình liên kết Đại học", trước khi đổi thành Higher Education Learning Pholosophy (Triết lý Đại học) như ngày nay, khi HELP đã có cả các chương trình đào tạo thạc sỹ và tiến sĩ.
Hình thức LKQT được manh nha từ những năm 1980 với sự hợp tác giữa trường Monash University (Australia) với tập đoàn Sungei Way Group nhằm xây dựng Monash University ở Malaysia. Tập đoàn Sungei Way Group có lẽ chính là người đi tiên phong trong việc tổ chức các chương trình LKQT. Tuy nhiên, sự bùng nổ của hình thức này chỉ bắt đầu sau năm 1996.
Hầu hết các trường tư của Malaysia đều có các chương trình LKQT và thành công của các chương trình này vượt xa mọi dự kiến của Chính phủ Malaysia. Đến đầu những năm 2000, chính phủ nước này nhận thấy rằng sinh viên tốt nghiệp các chương trình LKQT có nhiều lợi thế hơn hẳn: họ được học những chương trình chất lượng cao hơn, có bằng được công nhận toàn cầu, thông thạo tiếng Anh và có nhiều kinh nghiệp quốc tế hơn hẳn so với sinh viên học các chương trình của Malaysia bằng tiếng Malay. Cũng vào thời điểm đó, chính sách ưu đãi việc làm cho sinh viên tốt nghiệp người bumiputeras đã bão hòa và có một hậu quả tiêu cực là làm bộ máy hành chính của Malaysia phình ra quá lớn. Năm 2002, chính phủ của Thủ tướng Mahathir Mohammad quyết định cho phép dạy và sau đó là công nhận các chương trình sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy.
Các chương trình LKQT đóng một vai trò quan trọng trong việc cải tiến chất lượng, giúp nền giáo dục đại học của Malaysia tiếp cận với các chuẩn mực cao của thế giới. Rất nhiều trường cao đẳng, hay thậm chí là một “chương trình liên kết đào tạo” đã phát triển thành những trường đại học có chất lượng, như trường hợp đại học HELP nói trên.
Những điều nói trên cũng đúng với Khoa Quốc tế trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN). Cũng giống như các trường đại học Malaysia, Khoa Quốc tế bắt đầu từ những chương trình LKQT để lớn mạnh thành một tổ chức giáo dục chuyên nghiệp, với đội ngũ giảng viên quốc tế hóa, tiếp cận những chuẩn mực cao của thế giới. Từ những chương trình LKQT, Khoa Quốc tế đã xây dựng những chương trình đào tạo chất lượng cao của riêng mình, do ĐHQGHN cấp bằng.
Sinh viên của Khoa Quốc tế, so với bạn bè tại nhiều trường đại học khác nhau ở nước ta, khi tốt nghiệp có những ưu thế nổi bật mà các nhà tuyển dụng đánh giá cao. Đó không chỉ là kiến thức, kỹ năng, mà còn là sự tự tin và đặc biệt là ngoại ngữ. Những số liệu của khảo sát cho thấy 90% số sinh viên ra trường tìm được việc làm phù hợp chỉ trong vòng 3 tháng. Vậy mà nhiều em vốn có xuất phát điểm thấp hơn so với các bạn cùng lứa ở các trường công nổi tiếng. Đây cũng là một điểm khác biệt nữa của Khoa Quốc tế: ở đây, chất lượng không phải là trạng thái, mà là quá trình gia tăng hệ thống năng lực nghề nghiệp; đầu vào cũng chỉ là một trong những chỉ số chất lượng mà thôi.
Ở Khoa Quốc tế, chất lượng là sự phát triển./.