Ký ức của những nhà giáo qua hai chế độ
VOV.VN - “Giáo viên lưu dung” là tên gọi những nhà giáo từng dạy học qua hai thời kỳ trước và sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 50 năm đã trôi qua, các thầy cô vẫn bồi hồi khi nhớ về những năm tháng đặc biệt của ngành giáo dục Sài Gòn – Gia Định, đó là cuộc chuyển giao với cột mốc lịch sử 30/4/1975.
Cột mốc chuyển giao
Thầy giáo Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM là một trong số ít những nhà giáo chứng kiến sự thay đổi giữa hai chế độ. Ngày đất nước thống nhất tháng 4/1975, thầy Ngai cũng hòa chung niềm vui của dân tộc.

“Lúc đó cũng có một bộ phận, đặc biệt là những gia đình có liên quan đến chế độ cũ, họ cũng có những lo lắng nhất định, không biết là cách mạng sẽ đối xử với họ như thế nào. Còn cá nhân tôi thì thoải mái bởi tôi là người dân bình thường", thầy Ngai nói.
Thầy Ngai kể, trước đó mình dạy môn Toán ở trường Trung học Nhất Linh (nay là Trường THPT Nguyễn Hữu Cầu). Sau tháng 4/1975, giáo viên ở Thành phố dạy ở chế độ cũ được giữ lại để tiếp tục công việc, gọi là “giáo viên lưu dung”.
Thầy Ngai khi đó mới 26 tuổi được bầu làm Trưởng ban điều hành lâm thời trong lúc chờ thành lập ban giám hiệu mới. Sau đó vài tháng, thầy được bầu làm Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn của trường, rồi những năm tháng tiếp theo, thầy được bầu làm Hiệu trưởng và được đề bạt vị trí Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM.
Thầy Ngai cho biết: Những ngày còn dạy học ở Trường THPT Nguyễn Hữu Cầu, khi mới giải phóng, thầy Hiệu trưởng của trường là giáo viên từ miền Bắc vào, thầy cô trong trường không phân biệt Nam, Bắc mà chung tay hỗ trợ nhau trong công việc.
"Về mặt quản lý ở thời điểm đó, tôi chưa trải qua trường lớp nào nên chưa có kinh nghiệm nhiều. Nhưng nhờ làm việc cùng thầy (hiệu trưởng), qua đó tôi cũng học được nhiều để từ đó mình làm những công việc tiếp theo", thầy nói thêm.

Sau ngày 30/4/1975, cơ sở vật chất, trường lớp công lập và tư thục được bàn giao lại cho cách mạng khá thuận lợi. Tuy nhiên, ở huyện ngoại thành trường lớp và mọi thứ đều thiếu thốn.
Trước đó, mức lương giáo viên đảm bảo được cuộc sống tối thiểu. Nhưng giai đoạn sau giải phóng một thời gian, đời sống giáo viên vất vả hơn, có người nhà vẫn phải đi thuê. Mức lương thời điểm đó khoảng 40-50 đồng/người/tháng, lương thực được phát 13kg gạo nhưng vẫn thiếu và phải kèm theo khoai, sắn…
Đối với sách giáo khoa, toàn bộ sách được soạn riêng theo hệ phổ thông 12 năm, đây là điều hoàn toàn mới bởi thời điểm đó, miền Bắc vẫn còn áp dụng sách hệ phổ thông 10 năm. Mặc dù có thay đổi, nhưng những nội dung giáo dục về tư tưởng, đạo đức cho học sinh như lễ phép, tôn trọng người lớn, ngoan ngoãn, yêu quê hương, đất nước... vẫn được giữ lại ở cả 2 nền giáo dục trước và sau năm 1975 ở miền Nam.
"Với các môn tự nhiên thì không có vấn đề lớn lắm, chủ yếu là phương pháp dạy nếu có. Còn môn xã hội, việc đào tạo mới thì dễ hơn so với một người đã quen với quan điểm, tư tưởng của xã hội cũ, bây giờ phải chuyển đổi, đó là một quá trình khó khăn", thầy Ngai cho biết thêm.
Khoảng 5-7 năm đầu sau giải phóng, khu vực ngoại thành cực kỳ khó khăn, học trò đều ngoan, nhưng do gia đình khó khăn nên nhiều em phải bỏ học để phụ việc đồng áng cho cha mẹ. Để các em không bị thất học, thầy Ngai cùng nhiều thầy cô khác phải đến tận nhà vận động học sinh đến trường. Những em học lực yếu, thầy cô sẵn sàng phụ đạo sau giờ học mà không lấy đồng lương phụ cấp nào.

Bà Nguyễn Thị Kim Hồng, cựu học sinh trường THPT Nguyễn Hữu Cầu kể: Năm 1982, lúc đó bà đang học lớp 11, do gia đình khó khăn nên phải viết đơn xin nghỉ học. Thầy Ngai khi đó làm hiệu trưởng và cũng là giáo viên đứng lớp, đã xuống tận nhà tìm hiểu hoàn cảnh và động viên bà đi học lại. Nhờ vậy, bà Hồng ban ngày đi làm, tối đến đăng ký học bổ túc để hoàn thành việc học. Sau này bà Hồng công tác tại UBND huyện Hóc Môn rồi về hưu.
“Nhờ có thầy động viên rất nhiều mà ngày đó mình đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Thầy như một tấm gương để mình noi theo", bà Hồng bày tỏ.
Vượt qua những tư tưởng cũ
Thầy Phan Văn Sâm năm nay 80 tuổi, từng là giáo viên môn Ngữ văn trường THPT Nguyễn An Ninh (Quận 10) kể, thầy ra trường năm 1968, dạy ở Đồng Nai. Năm 1972, thầy Sâm chuyển về trường Trung học Phan Công Hớn ở huyện Hóc Môn, giảng dạy môn Ngữ văn lớp 11 và tiếng Anh cho các lớp cấp 2.
Thầy Sâm nhớ lại, trước giải phóng, học sinh chỉ cần thi tuyển vào lớp 6 là học đến lớp 12. Giáo viên phần lớn lương tạm ổn, không cần dạy thêm. Chương trình dạy cũng tự do, bộ giáo dục không ấn định một bộ sách, học sinh cũng không nhất thiết cần sách giáo khoa, chỉ cần học theo những gì thầy cô dạy là có thể thi được.
Sau tháng 4/1975, thầy Sâm cũng như những giáo viên tại chỗ đều được tiếp tục giảng dạy và cử đi tiếp quản các trường tư thục bàn giao cho chính quyền cách mạng. Sau đó thầy đi dạy một số trường cấp 2 trong huyện, đến năm 1983 chuyển công tác về THPT Nguyễn Hữu Cầu.
“Lúc giải phóng, mình di dạy được chục năm rồi, nếu bỏ ra ngoài không biết làm gì hết. Mình đổ công sức học sư phạm, tốt nghiệp Đại học ít nhiều đã có vốn kiến thức, hiểu biết. Nếu đi ra ngoài làm được kinh doanh mua bán, không có kinh nghiệm, vốn liếng thì không thể nào bằng những người sống bằng nghề buôn bán từ nhỏ", thầy Sâm kể.

Thầy Sâm cũng tâm sự, cha của ông từng tham gia Thanh niên Tiền phong chống thực dân Pháp, do bị bệnh nên phải trở về. Sau này khi học đại học, thầy có nghe ba kể lại, rồi thầy nghe Đài Phát thanh giải phóng, theo dõi phong trào sinh viên.., nên cũng hiểu được tình hình lúc bấy giờ. Vì vậy ngay sau ngày giải phóng, ông nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới:
"Thời điểm đó, đối với cách mạng tôi cũng có một phần hiểu biết, dù hằng ngày sống trong chế độ cũ cũng bị tác động, cũng có sợ. Nhưng tôi tin ở ba mình, và sau giải phóng được tiếp xúc với bạn bè người quen trở về, họ đều là những người đáng kính", thầy Sâm nói thêm.
Sau năm 1975, sách vở được in nhiều, các trường hầu hết đều có thư viện, thậm chí có thời điểm cho học sinh mượn sách giáo khoa học, giúp học sinh có điều kiện đi học. Cơ sở vật chất giai đoạn đó vẫn còn khó khăn, do đất nước vừa trải qua chiến tranh thời gian dài. Tuy vậy, các thầy cô vẫn bám trụ với nghề và động viên học trò tiếp tục đến lớp
“Có thời điểm, nhiều em học sinh chán học, chúng tôi vẫn khuyên các em là phải tin tưởng bởi chế độ nào cũng vậy, phải có tri thức mới tồn tại và tự sống được. Nếu không làm trong nhà nước thì có tri thức các em vẫn sống được ngoài xã hội, giữ được mình", thầy Sâm nói thêm.
Đối với nhà giáo Nguyễn Văn Ngai, suốt quá trình công tác trong ngành giáo dục, lúc nào cũng quan niệm, sư phạm chính là sống trong khuôn khổ, “thầy ra thầy” để dạy “trò ra trò”. Nhìn lại chặng đường 50 năm đất nước thống nhất và sự phát triển của thành phố, thầy Ngai không giấu được niềm vui.
“Nhìn lại mình cũng tự hào lắm, trường lớp giờ đây khang trang hơn, tạo thêm được nhiều chỗ học, ngoài hệ thống trường công lập còn có trường ngoài công lập, trường có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện cho những người cho nhu cầu được học", thầy Ngai nói.
Những nhà giáo như thầy Ngai, thầy Sâm cùng nhiều thầy cô giáo khác, dù vắt qua 2 chế độ cùng với nhiều giai đoạn đổi thay của đất nước, nhưng họ vẫn luôn coi sự nghiệp trồng người là con đường tiếp nối cho cuộc đời mình để đóng góp cho sự phát triển giáo dục của Thành phố và đất nước.