Đào tạo nhân lực- Giải pháp chủ động ứng phó với BĐKH

Con người là một trong những nguyên nhân chính gây ra BĐKH. Và chính con người cũng là nhân tố chính để khắc phục, ứng phó với hiện tượng này.

Con người- nguyên nhân chính gây BĐKH

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là vấn đề cấp bách mà các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. BĐKH đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng, đe dọa cuộc sống của hơn 7 tỷ người.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hậu quả có thể xảy ra từ BĐKH sẽ làm khoảng 150.000 người chết và khoảng 5 triệu người bị bệnh mỗi năm (sốt rét, tiêu chảy, suy dinh dưỡng, bệnh phổi, bệnh lao…). Nguy cơ là vậy nhưng con người vẫn còn thờ ơ, thiếu chủ động trong nhận thức và tham gia các hoạt động chống BĐKH.

Theo TS Huỳnh Phú (Giảng viên trường Đại học Tài nguyên Môi trường Hà Nội), các yếu tố BĐKH ngày càng dễ nhận biết: Từ nhiệt độ trên bề mặt Trái đất tăng lên, nước biển dâng cao, bão tố, lũ lụt

Nghiên cứu mới nhất của Nhóm chuyên gia liên Chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, nếu nhiệt độ trái đất tăng từ 1,5 - 2 độ C thì khoảng 20-30% các loại động thực vật trên thế giới sẽ có nguy cơ tuyệt chủng.

Triều cường- một trong những biểu hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu (Ảnh: KT)

Liên Hợp Quốc cũng chỉ ra rằng, có nhiều nguyên nhân gây ra BĐKH, nhưng 90% là do con người gây ra. Những hoạt động của con người tác động mạnh gây ra BĐKH có thể dễ nhận biết như: Khai thác rừng bừa bãi, sản xuất nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, các nhà máy xí nghiệp xả thải gây ô nhiễm môi trường…

Đối với Việt Nam- 1 trong 5 nước trên thế giới bị dễ bị tổn thương do BĐKH, Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP) khuyến cáo, khi nhiệt độ tăng lên 2 độ C, mực nước biển dâng 1m sẽ ảnh hưởng đến 22 triệu người Việt Nam, 5% diện tích đất đai, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% sản phẩm quốc nội (GDP).

Trên thực tế hiện nay, Việt Nam đã thực hiện các giải pháp ứng phó với BĐKH nhưng phần lớn đang là giải pháp tình thế, thiếu tính chủ động. Ví dụ như để hạn chế ngập lụt, nước dâng thì đắp đê, làm cống hay trạm bơm. Đây là giải pháp mang đối phó, thụ động, và hiệu quả ngắn hạn. Nhưng đến một lúc nào đó sẽ vượt xa khỏi khả năng vì chúng ta không thể cứ nâng cao triền đê hay hệ thống tiêu thoát, TS Huỳnh Phú nhận xét.

Thiếu nhân lực chống BĐKH

Tại Hội thảo Đào tạo nhân lực trong lĩnh vực BĐKH do Văn phòng Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH (Bộ Tài nguyên & Môi trường) tổ chức ngày 25/10, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, việc thực hiện chống BĐKH phải bắt đầu từ con người. Đây nhân tố gây ra BĐKH cũng như là nhân tố chính để ứng phó vấn đề này.

GS.TS Trần Thục- Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho biết: Hội nghị LHQ về Môi trường và Phát triển đã chỉ ra rằng, năng lực chống BĐKH của mỗi quốc gia bao gồm: Nhân tố con người, năng lực khoa học, công nghệ, tổ chức, thể chế và nguồn tài nguyên.

Để ứng phó với BĐKH, tất cả chúng ta cần thay đổi hành vi, đặc biệt thói quen sử dụng nhiêu liệu hóa thạch và năng lượng không hiệu quả.

Thế giới cần phải sử dụng các công nghệ sạch hơn và thay đổi cấu trúc nền kinh tế. Như vậy, sẽ đặt ra nhu cầu phát triển những lĩnh vực giáo dục mới, nâng cao nhận thức và đào tạo các kỹ năng, kiến thức mới. Có nghĩa là cần phải nâng cao nguồn nhân lực cho ứng phó với BĐKH.

Tuy nhiên, theo ông Lê Công Thành- Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên & Môi trường), nhân lực chuyên môn hiện nay của nước ta phục vụ cho lĩnh vực này đang phải tận dụng từ nhiều ngành khác nhau. Họ phải kiêm nhiệm các hoạt động từ quản lý tới thực hiện các hoạt động liên quan tới BĐKH.

Nhân lực còn thiếu ở nhiều cấp, chưa nhận thức, xác định đầy đủ bản chất, tác động tiềm tàng của BĐKH để giải quyết trực tiếp những vấn đề về BĐKH.

Bên cạnh đó, BĐKH là vấn đề mới, phức tạp chưa có đầy đủ thông tin, dữ liệu và phương pháp luận nên chưa đánh giá ngay được đầy đủ và toàn diện đối với từng ngành, từng lĩnh vực.

Cũng theo ông Lê Công Thành thì nguyên nhân dẫn tới việc thiếu nhân lực trong phòng chống BĐKH là do hệ thống đào tạo, nhận thức và chuyên môn của các ngành. Mạng lưới các cơ quan chính phủ, khoa học, tư nhân, cộng đồng hoạt động nhỏ lẻ, thiếu sự phối hợp và định hướng. Khoa học công nghệ còn rất hạn chế, tập trung ở các cơ quan chính phủ, gần như không có nhân lực ở địa phương. Thông tin, kiến thức về BĐKH chủ yếu từ các nguồn quốc tế chưa có cơ sở dữ liệu, nguồn tài liệu đạo tạo trong nước. Mạng lưới đào tạo chưa được thiết lập, thiếu sự phối hợp về đạo tạo, bồi dưỡng giữa các đơn vị trong ngành….

Nâng cao nhân lực chống BĐKH

BĐKH bắt đầu được nghiên cứu tại Việt Nam từ khoảng 20 năm trước song thực tế đi vào đời sống chính trị, xã hội mới khoảng 5-6 năm nay.

Nhu cầu đào tạo nhân lực là cấp bách về số lượng và chất lượng. Nâng cao nguồn nhân lực cho BĐKH giúp Việt Nam thực hiện hiệu quả các hoạt động ứng phó với BĐKH, có thêm cơ hội nhận hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ quốc tế, nâng cao năng lực đàm phán, từ đó giúp khẳng định vị thế và bảo về quyền lợi cho Việt Nam.     

Theo ông Trần Thục, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ứng phó với BĐKH đang được nhiều nước trên thế giới hết sức quan tâm. Tại Trung Quốc đã hình thành một nhóm chuyên gia nòng cốt về BĐKH với các chuyên ngành khác nhau như: Kinh tế, khoa học xã hội, năng lượng, khí tượng- khí hậu, sinh thái, môi trường…. Hiện có hơn 1.000 nhà nghiên cứu và các chuyên gia đang làm việc trong các lĩnh khoa học và ứng dụng của BĐKH.

Tại một số nước đã thành lập các Viện Nghiên cứu BĐKH quốc gia. Họ cũng có các khóa học đào tạo về BĐKH và đưa vấn đề BĐKH vào chương trình giảng dạy của nhiều trường đại học và cao đẳng. Các trung tâm dịch vụ kỹ thuật về cơ chế phát triển sạch cấp tỉnh cũng được xây dựng.

Ông Trần Thục cũng cho biết, hiện nay các nước trên thế giới có nhiều chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ thực hiện nhằm nâng cao năng lực về BĐKH như: Chương trình nâng cao năng lực của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID); Nhiệm vụ của chương trình BĐKH của Viện Nghiên cứu và Đào tạo của LHQ, hay như Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển (IIED) đã triển khai chương trình nâng cao năng lực liên quan đến BĐKH cho các nước đang phát triển…

Bởi vậy, theo ông Trần Thục đề xuất, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho ứng phó với BĐKH ngoài việc cần có chương trình đạo tạo chất lượng cao cho các ngành, các địa phương thì chúng ta phải có thêm kinh nghiệm tham gia các diễn đàn quốc tế, đàm phán quốc tế và tận dụng các cơ hội quốc tế về đạo tạo nâng cao nguồn nhân lực. Đồng thời chính thông qua việc tham gia đàm phán quốc tế và các hoạt động hợp tác quốc tế, một số chuyên gia đã được cung cấp đầy đủ các kiến thức khoa học cũng như làm quen với các cơ chế đàm phán khoa học.

Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa loại hình đào tạo, phát triển hướng đào tạo chính quy ở các trường đại học, xây dựng và hoàn thiện các chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo về BĐKH. Chúng ta cũng cần đa dạng hóa các viện nghiên cứu về BĐKH, tổ chức các khoa tập huấn, đào tạo ngắn hạn, nâng cao nhận thức, năng lực đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý kiến thức về BĐKH cũng như tăng cường tuyên truyền tới cộng đồng.

Ngoài ra, "Chúng ta cần phải thực hiện điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng và dự báo nhu cầu (ở Trung ương, địa phương, theo các chuyên môn liên quan, kiến thức bổ sung), xây dựng mới, điều chỉnh, hoàn thiện các cơ chế, chính sách chế độ đào tạo và bồi dưỡng về BĐKH", ông Lê Công Thành bổ sung đề xuất./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên