Những “cột mốc” chủ quyền trên thềm lục địa:

Những anh hùng thời đại mới

Sự hy sinh của các anh đã trở thành biểu tượng cao đẹp, làm sáng ngời phẩm chất anh hùng của người chiến sỹ Hải quân

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giữa thời bình, biết bao chiến sĩ đã thầm lặng hy sinh quên mình vì chủ quyền biển, đảo. Trong sự hy sinh cao cả ấy, có cán bộ chiến sĩ nhà giàn DK1, những người đêm ngày canh giữ “cột mốc chủ quyền trên biển”. Các anh xứng đáng là những anh hùng của thời đại mới.

Lời người sống sót trở về

“Trong cuộc đời người lính, tôi không thể nào quên được những giờ phút khốc liệt nhất chống chọi với sóng cuồng, bão giật giữa biển khơi trong đêm tối mịt mùng cách đây hơn 12 năm về trước. Cơn bão số 8 tháng 12/1998 đã cướp đi 3 đồng đội của tôi. Hơn 12 năm rồi mà cứ ngỡ hôm qua, cái giờ phút kiên cường ấy vẫn làm tim tôi thổn thức”, Hoàng Xuân Thủy mở đầu câu chuyện kể về những giờ phút mong manh giữa sự sống và cái chết trên nhà giàn Phúc Nguyên 2A năm đó.

Hoàng Xuân Thủy - người trở về sau trận bão số 8 kinh hoàng năm 1998

Ngày ấy vào trung tuần tháng 12/1998, cơn bão số 8 bất ngờ đổ bộ vào vùng biển nước ta. Sức gió mạnh cấp 12, giật trên cấp 12, vùng biển thềm lục địa Bà Rịa Vũng Tàu đúng tâm mắt bão. Mệnh lệnh cấp trên: Tất cả các Trạm Khoa học Kỹ thuật Dịch vụ (KH-KT- DV) chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đối phó với sóng gió và sự rung lắc mạnh của Trạm, đề phòng tình huống xấu nhất xảy ra khi trạm đổ. Các tàu trực ở khu vực nhanh chóng về Côn Đảo trú bão…

18h30, một con sóng cực lớn đánh trùm lên Trạm làm nhà giàn nghiêng hẳn một bên, lắc lư như ngọn cây. Chuẩn úy Lê Đức Hồng đang nằm trên giường, bị chiếc bàn bóng bàn trượt đến chặn lên người. Lúc này, chiến sĩ Hoàng Xuân Thủy đang ở phòng chỉ huy cùng Đại úy Vũ Quang Chương xem trên bản đồ hướng đi của bão, nghe tiếng Hồng kêu lớn liền chạy ra phòng câu lạc bộ thì bị chiếc tủ sắt đổ vào người rách một đoạn dài ở bụng, máu tuôn xối xả.

Tình thế lúc này cực kỳ nguy kịch, những tấm gỗ lát mặt sàn bật tung, Trạm chao đảo, chiếc ti vi trên bàn đổ xuống sàn nhà, toàn bộ giá gạo trong kho đổ sập, giường tủ bàn ghế chạy đi chạy lại, máy phát điện bị chập tắt ngấm, chiến sĩ Hoàng Xuân Thủy nhanh chóng vào phòng thông tin, lên máy gọi Đài canh Sở chỉ huy Quân chủng Hải quân, báo cáo toàn bộ việc nhà giàn bị sóng đánh nghiêng và đề nghị cho tàu đến cứu.

Sóng mỗi lúc một to, tất cả 9 anh em mặc sẵn áo phao, lấy giây mồi buộc vào tay nhau để khi nhà giàn đổ xuống biển thì vẫn tìm thấy nhau, chết thì vẫn còn xác. Trạm phó quân sự Dương Văn Hoan vào kho lấy bao gạo ra chèn phao cứu sinh và chân giường để tránh va đập, liền bị toàn bộ giá gạo đổ sập xuống vai. Trong tiếng thét gào của gió mưa, Trạm trưởng Vũ Quang Chương hô lớn: “Tất cả phải thật bình tĩnh, bằng mọi cách phải nối thông tin liên lạc. Mọi người sẵn sàng rời trạm, dùng bao gạo chèn vào chân giường”.

Lúc 22h ngày 12/12/1998, máy nổ vụt tắt lần 2 do sóng đánh làm chập điện. Dây ăng ten thông tin bị đứt. Chiến sĩ cơ điện nhanh chóng kiểm tra sự cố chập điện. Trong đêm tối mịt mùng, nhân viên báo vụ Hoàng Xuân Thủy tay cầm đèn pin nhanh nhẹn cúi sát người bò lên lan can cầu thang lần mò nối lại dây ăng ten và tiếp tục liên lạc với Sở chỉ huy đất liền và Đài canh thông tin Quân chủng Hải quân. Lúc này, tất cả thông tin được nói trực tiếp qua máy I –Com chứ không qua mã dịch cơ yếu. Giọng nói của Hoàng Xuân Thủy nhân viên báo vụ Trạm Phúc Nguyên 2A báo cáo trực tiếp với Sở chỉ huy: “Hiện nay sóng đã trùm lên sàn ở, nhà chao đảo mạnh, một số vật dụng trong câu lạc bộ bị đổ vỡ, anh em vẫn bình tĩnh đối phó, đề nghị cấp trên cho rời trạm”.

Xác định không thể trụ thêm được nữa, Sở chỉ huy quyết định cho đơn vị rời Trạm và yêu cầu phải bảo đảm tuyệt đối an toàn. Tiếng trạm trưởng Vũ Quang Chương hô: “Tất cả rời trạm, tổ 2 thả phao bè xuống trước, khi xuống biển nhanh chóng bám chặt vào phao”. Lúc đó là 0h30 phút ngày 13/12/1998.

Mọi người xác định sẵn sàng hy sinh, nhưng bình rất bình tĩnh. Anh em còn trêu đùa nhau. Nguyễn Văn An bảo: “Tao chết thì có gì đâu, chỉ thương là vợ tao mới đẻ, tao chưa biết mặt con. Thương nhất là anh Chương thôi, chưa có một mảnh tình rách vắt vai” và cười rất lạc quan, vô tư. “Anh biết không, thật ra lúc đó trong tim chúng tôi đang chảy máu. Muốn khóc mà không khóc được, thương bố mẹ và nhớ đất liền vô cùng” - Thủy khóc, những giọt nước mắt dồn nén 12 năm, hôm nay mới có dịp trào ra.

Thủy kể tiếp, sóng mỗi lúc một lớn, trời mịt mùng đen kịt. Tất cả anh em đứng ngoài lan can không dám ở trong nhà vì sợ nhà đổ bất ngờ, mọi người sẽ bị nước biển hút vào trong không ra kịp. “Mỗi khi có con sóng kinh hoàng như quả núi trước mặt, chúng tôi lại nhắm mắt nín thở cầu mong nhà không đổ và sóng qua mau”, nhưng tất cả đều vô vọng. Nhà giàn lắc lư chao đảo theo sóng. Không thể trụ được nữa, Trạm trưởng Vũ Quang Chương chỉ huy tốp 2 nhảy xuống biển, bằng mọi cách phải bám phao cứu sinh. Tốp 2 có Trạm phó quân sự, Trung úy Dương Văn Hoan, chiến sĩ cơ yếu Hà Công Dụng, Thuật - chiến sĩ pháo thủ. Trên nhà giàn lúc này chỉ còn Thủy, Chương và chiến sĩ cơ điện.

Lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh tại thềm lục địa phía Nam Tổ quốc

Trước khi rời Trạm, Chương còn cẩn thận đóng tất cả cửa lại nếu Trạm đổ thì anh em không bị nước hút vào trong. Anh ôm lá cờ Tổ quốc vào ngực mình rồi gấp gọn cùng với cuốn sổ vàng truyền thống cho vào bao bảo quản gói chặt. Còn Thủy đem theo một súng tín hiệu và 6 viên đạn, các tài liệu mật của ngành thông tin rồi lên máy lần cuối nói Đài canh Đà Lạt 01. Giọng Thủy bình tĩnh nghẹn ngào dặn chị Vân ở Đài canh Sở Chỉ huy Hải Phòng: “Chị Vân ơi, em là Hoàng Xuân Thủy, quê em ở Mỹ Sơn, xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. Bố em là Hoàng Văn Sơn, mẹ em là Lê Thị Thịnh. Nếu em chết thì nhờ chị viết thư về báo tin cho nhà em biết”. Nói xong, Thủy ôm bao gạo cùng Chương nhảy xuống biển trong tiếng gào thét của Thượng úy Nguyễn Xuân Mạnh, một đồng đội trạm Phúc Nguyên 2B phát qua máy I - Com sóng cực ngắn “Thủy ơi nhảy đi, nhảy đi, nhà đổ rồi, nhảy đi”.

Giữa sóng gió và trời tối đen như mực, không nhìn thấy gì dù trong gang tấc, Chương hô lớn: “Tất cả anh em bám chặt vào phao bè và ra khỏi vòng xoáy”. Đúng lúc đó một con sóng kinh hoàng dựng lên như vách núi đập mạnh làm cho Trạm đổ hoàn toàn. Chương, An, và Hồng bị hất tung không bám được vào dây nữa. Thủy chỉ nghe tiếng Chương kêu “Thủy ơi, cứu anh. Bám vào dây em ơi” rồi bị cuốn vào sóng dữ.

Giữa sóng cuồng, bão giật, Thủy nhìn thấy 4 người trên phao cứu sinh là Hoan, Dụng, Thuật, Tôn đang gào thét cố bám chặt lấy mảnh phao bè. Thủy gọi: Thằng Thơ đâu? (Lúc này Thơ bám được bao gạo đã bị sóng đánh ra xa). Cả đêm hôm đó, 5 con người trên chiếc phao cứu sinh nhỏ bé quần lộn với sóng bão, ai cũng nghĩ nếu hy sinh, vẫn phải kiên cường, phải chống chọi đến hơi thở cuối cùng. Bỗng Thủy phát hiện có 1 thanh gỗ trôi gần đó. Anh lao ra với bẻ đôi làm mái chèo. Mọi người thay nhau chèo ra khỏi vòng xoáy nhưng thực ra chẳng biết chèo đi đâu. Đúng lúc ấy thì phát hiện thấy Thơ đang bám vào bao gạo. Thủy lao ra dìu Thơ và giúp trèo lên phao cứu sinh, cởi áo cho Thơ mặc. Thủy bình tĩnh lấy súng tín hiệu bắn 3 phát báo hiệu cấp cứu. Viên đạn cuối cùng Thủy đưa cho Trạm phó quân sự Dương Văn Hoan bắn, nhưng cơn sóng mạnh đã cuốn trôi khỏi tay Hoan. Cứ thế 6 anh em trên chiếc phao cứu sinh chống chọi với sóng gió. Mọi người lấy lương khô và tỏi ra ăn và uống nước biển.

17h ngày 13/12/1998, anh em phát hiện thấy ánh đèn của Nhà giàn bên cạnh. Mọi người chưa đoán được Nhà giàn nào. Hoan động viên “sống rồi. Anh em cố gắng chèo đến gần lô (cán bộ chiến sĩ quen gọi nhà giàn là lô) đi”. Bỗng Tôn ngoảnh lại thì nhìn thấy một con tàu lừng lững sau lưng mình.

Trước đó, tại Sở Chỉ huy ở đất liền, ngay khi nhận tin Trạm Phúc Nguyên 2A đổ, tất cả nhân viên của Trạm đang gặp nạn, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã trực tiếp chỉ đạo thành lập biên đội tàu gồm: HQ624, HQ608, HQ606, HQ957 đang ở vị trí tránh bão nhanh chóng về tọa độ X và bằng mọi cách tìm kiếm cứu nạn. Biên đội tàu chia làm hai mũi thẳng hướng đã xác định. Sóng lúc này vẫn còn rất to, tàu HQ606 có lượng dãn nước 450 tấn mà cứ chồm lên ngụp xuống trong những cơn sóng xoáy và ngược gió. Có lúc tàu tiến 3 mà không nhích lên được tí nào. Đêm đó, cán bộ chiến sĩ tàu HQ606 không ai ngủ được, tất cả ra lan can quan sát tìm kiếm đồng đội. Đến gần sáng sóng giảm hơn, tầm quan sát được xa hơn. Thuyền trưởng Lê Văn Muộn nhận định: Có thể họ đã trôi rất xa so với tọa độ đầu tiên, phải nhanh chóng tìm bằng được kẻo không còn kịp nữa. Theo kinh nghiệm và phán đoán, thuyền trưởng cho tàu quay ngang cắt mũi về hướng Tây Bắc. Bỗng một chiến sĩ quan sát báo cáo phát hiện từ xa có một vật nổi trên biển hướng tàu đang đi tới. Khi cách vật nổi ấy 1 hải lý chiến sĩ quan sát hô to: “Kia rồi, họ kia rồi các đồng chí ơi”.

Lúc này 6 anh em trên chiếc phao bè mệt lả, quần áo rách tả tơi, da nhợt nhạt do sóng quần và ngâm lâu trong nước mặn. Thuyền trưởng Lê Văn Muộn chỉ huy thủy thủ trên tàu quăng phao tròn, tiếp sức từng người một, tất cả an toàn. Sau khi được cứu, các anh được chăm sóc sức khỏe tắm rửa, ăn cháo cho lại sức. Lúc đó là 18h30 ngày 13/12/1998.

Tốp 1 đã được cứu vớt, lệnh của Sở Chỉ huy cho biên đội tiếp tục tìm kiếm tốp 2. Nhưng hết ngày thứ 2, ngày thứ 3 và những ngày tiếp theo vẫn không tìm thấy những người còn lại. Việc tìm kiếm tiếp tục bằng con đường ngoại giao, thông báo với các nước bạn vùng lân cận về những người bị mất tích thông qua Đại sứ quán… 6 tháng sau, không có sự trả lời của nước bạn về tin tức của các anh, vậy là đã rõ: Các anh đã hy sinh, vĩnh viễn nằm lại biển xanh.

Lên nhà giàn là việc hết sức khó khăn. Khi biển động, phải đu dây mới có thể lên được

Bao tiếc thương để lại

Trạm trưởng Vũ Quang Chương, quê ở Thái Bình, hy sinh khi tuổi đời mới chớm 30, anh chưa kịp yêu một người con gái. Ở quê hương, anh còn bố mẹ già và người em gái mong anh lấy vợ để ông bà có cháu nội bế bồng. Anh đã làm tròn sứ mệnh của mình với Tổ quốc, tròn bổn phận của một người con với bố mẹ, chỉ tiếc rằng anh chưa cho bố mẹ anh một nàng dâu hiền thảo và sinh con để nối dõi tông đường.

Còn Nguyễn Văn An, khi tạm biệt quê hương Kim Sơn, Ninh Bình lên đường làm nhiệm vụ, vợ anh đang mang thai đứa con đầu lòng, anh nói với chị: “Em chờ anh về để anh đặt tên cho con”. Không ngờ, đó là lời chia tay với người vợ thân yêu lần cuối. Cái ngày đoàn tụ vui mừng ấy chưa đến, anh đã hy sinh. Một tuần trước khi mất, nhận được thư vợ báo đã sinh con trai, anh mừng lắm. Tuy chưa được nhìn mặt con, nhưng anh tin nó rất giống anh.

Lê Đức Hồng, chàng thanh niên trẻ ra đi từ quê hương Hà Tĩnh, chưa được một lần cầm tay người con gái, ngã vào lòng biển mới 21 tuổi đầu. Ngày anh xung phong ra thềm lục địa làm nhiệm vụ, hành trang mang theo là kỷ niệm lãng mạn của cậu học sinh vừa rời ghế nhà trường. Giữa cận kề sự sống và cái chết, anh vẫn lạc quan khoe với đồng đội những lá thư viết nhưng chưa kịp gửi, còn cất giữ tận đáy ba lô. Đó là những lá thư kết bạn từ báo Tiền phong chờ tàu thay trực để gửi về đất liền. Ở quê nhà anh còn bố mẹ già và em nhỏ luôn chờ đó anh hoàn thành nghĩa vụ trở về…

Mới đó mà đã hơn 12 năm. 12 năm là một khoảng không dài so với dòng chảy của thời gian, nhưng cũng đủ khắc sâu trong tim chúng tôi về sự hy sinh quên mình của các anh. Nơi trước đây các anh ở và ngã xuống, giờ đây đã xây trạm mới. Vòng hoa trước biển viếng các anh hôm nay, thay lòng biết ơn, khâm phục sự gan dạ kiên cường, dũng cảm của chúng tôi đối với các anh. Là sự tri ân của thế hệ những người lính đi sau đối với các liệt sĩ. Chúng tôi vẫn tiếp bước các anh ra nơi này để học tập, để canh giữ biển trời. Dù khó khăn gian khổ, dù phải hy sinh tính mạng, chúng tôi quyết tâm giữ bằng được thềm lục địa thân yêu - điều thiêng liêng nhất mà trước đây các anh đã từng tâm nguyện./.

Kỳ cuối: Những bông hoa biển

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên