“Gió đâu gió mát sau lưng”

Chiếc quạt gắn bó với con người từ lâu đời và mang bao nỗi niềm của con tim. Nó là gió. Nó là tình. Nó là múa ca và nó còn là niềm vui của sự sống được gửi trao.

Tôi như bị ma ám vì lẩn thẩn đi theo cô đào hát ấy. Cô hát chèo một thời nức tiếng và có biệt tài múa quạt biểu đạt tâm trạng của vai diễn. Giọng cô ngọt và trong làm tôi ngây ngất, còn cái quạt trong tay cô luôn làm tôi giật mình, thảng thốt. Cái vẩy tay quạt như giận dỗi. Ngón tay thon kia, khép nan nửa chừng đã làm tôi ghen tị với anh kép đẹp trai khi được ngỏ lời yêu. Rồi khi cái quạt được mở xoè hết cỡ, vang lên một âm thanh như reo vui thì tôi phải nhắm mắt vì sợ nhìn thấy hình ảnh tay trong tay, má kề vai của cặp tình nhân. Cứ thế cái quạt trong tay cô đào đeo đuổi tôi hoài…

Đó là những kỷ niệm thuở trai trẻ chợt hiện về khi tôi đến đình Phiến Thị thắp hương cho ông tổ nghề làm quạt họ Đào ở số 4 phố Hàng Quạt, Hoàn Kiếm - Hà Nội. Dễ cũng đến vài trăm năm, ông Đầu Quạt đã đi xa nhưng người làng Đào Xá, Hưng Yên nhớ ơn ông khi cất lều làm quạt tại đất Hà Thành. Và cũng chỉ có thợ làm quạt tre ở đây chuyên dùng giấy bản, giấy dó của làng Yên Thái. Chứ không như các thợ làm quạt ở làng quê khác phải mua giấy điều tận Bắc Ninh. Bất chợt tôi nhớ có lần cô đào chèo mách rằng quạt để múa phải đặt tận thôn Lủ, làng Kim Lũ, Thanh Trì xưa kia. Thảo nào quạt của đào nương thường được dán đôi lớp lụa màu thưa mỏng, tạo nên làn gió thơm mượt, qua cổ tay dẻo đến mê mẩn lòng người.

Vợ chồng ông Mơ vẫn tha thiết với nghề làm quạt

Quạt mà cô đào của tôi múa sau này còn được thửa ở làng Chàng Sơn, huyện Thạch Thất. Ở làng này nức tiếng có ông Dương Văn Mơ, chuyên làm quạt lụa cho lễ hội và các loại quạt nghệ thuật cao cấp xuất ngoại. Hàng toàn do các thương gia phương Tây hay Nhật đặt mua, với nhiều mẫu và hình vẽ độc đáo. Nhưng có dịp gặp tôi hỏi về chuyện làm quạt giấy của bà con trong làng, thì ông Mơ buồn hẳn, rồi nói: “Thời buổi này khó sống bằng nghề làm quạt giấy cho người tiêu dùng ông ạ. Phập phù lắm vì thu nhập rất thấp. Gia đình nào cũng dùng quạt điện, hay máy điều hoà…”.

Ông lặng đi, có lẽ vì mấy đời gia đình ông theo nghề làm quạt giấy để bán nhưng giờ thì theo làng bỏ cả. Duy chỉ có vợ chồng ông vẫn còn tha thiết với nghề, nhưng cũng chỉ làm quạt khi được đặt hàng theo yêu cầu của thập phương. Mặc dù đã có những chuyến bán tới hàng ngàn chiếc nhưng ông Mơ vẫn buồn vì làng nghề này đã bị mai một. Ông làm quạt với bao nỗi niềm thấp thỏm vì sự nhớ một thời cả làng náo nức và sinh sống bằng nghề làm quạt thuở hàn vi. Chính vì lẽ đó mà giờ đây ông còn làm thêm nghề bốc thuốc để kiếm sống, bởi ngày càng khó thuê nhân công làm quạt với đồng lương ít ỏi. Hầu như mọi người đã chuyển làm nghề khác để kiếm ăn dễ hơn.

Cũng giống như dân làng Chàng Sơn, đến 95% gia đình ở làng Vác (Canh Hoạch, Thanh Oai, Hà Nội) đã bỏ nghề làm quạt, chuyển sang làm lồng chim. Bán lồng chim nhiều tiền hơn nên nhiều gia đình ở đây khá giả lắm. Vừa rồi tôi về dự hội làng Vác mới chứng kiến sự đổi thay. Hậu cung đình vẫn còn thờ Quạt. Hay trang trí khánh tiết lễ hội vẫn dùng hình tượng quạt. Một đội múa quạt gồm những người trẻ tuổi khi đi rước, giờ đây chỉ để lại dư âm tiếc nuối một làng nghề bị biến mất. Đến nhà bà Lưỡng, 77 tuổi, một trong số ít người còn làm quạt hiện nay, tôi càng có cảm giác bâng khuâng vì bà nói: “Ít người làm quạt lắm ông ạ. Cả sáu đứa con tôi đều đi buôn bán hoặc làm việc khác. Chỉ còn cánh già chúng tôi làm cho đỡ buồn vì không thể làm được việc gì khác”.

Khi tôi hỏi về chuyện bán những chiếc quạt giấy màu tím đang phơi ở ngoài sân, bà không nói, chỉ chép miệng lắc đầu và chỉ rầu rầu nhắc đến câu ca xưa, đầy tự hào của làng:

“Hỡi cô thắt dải bao xanh

Có về Canh Hoạch với anh thì về

Canh Hoạch ít ruộng nhiều nghề

Yêu nghề quạt giấy hay nghề đan khuôn”

Lại nhớ, có lần tôi đến nhà đào nương, người tình trong mộng của tôi ở tại căn hộ cao cấp khu Mỹ Đình để ngắm bộ sưu tập quạt múa suốt một đời của cô, mới biết trong đó có một chiếc quạt của một nghệ nhân bị tật nguyền, nổi tiếng ở Hà Nội. Đó là Nguyễn Lân Tuyết, con gái út của nghệ nhân tài hoa Nguyễn Đức Lân cũng ở Chàng Sơn. Nhưng cô lại thoát ly mang theo nghề của gia đình và mở xưởng sản xuất tại phố Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội. Tất nhiên cô cũng không thoát khỏi lực hút của thị trường nên chỉ làm quạt trang trí, khổ lớn, hoặc quạt biểu diễn nghệ thuật và trong lễ hội. Phải nói nghệ nhân Nguyễn Lân Tuyết có tài biến hoá mọi hoạ tiết dân gian được nhập thần vào các nan quạt và trên vóc lụa, với các hình tượng Thánh Gióng, tranh Đông Hồ, thắng cảnh Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng...

Nghệ nhân Nguyễn Lân Tuyết, với chiếc nạng gỗ đã đi khắp nơi, sang Nhật, Mỹ… để quảng bá những sản phẩm tre Việt. Chị đã thành công với ý nguyện phát huy nghề truyền thống, theo chiều hướng hoà nhập cộng đồng quốc tế, nhưng vẫn bảo tồn được nét đẹp truyền thống, mềm mại khiêm nhường và đôn hậu. Đáng chú ý, chị đã làm được chiếc quạt lớn có đường kính dài tới 3m để dự triển lãm. Tưởng đây đã là chiếc quạt đạt kỷ lục của chị nhưng vẫn không ăn thua với chiếc quạt khổng lồ của hai nghệ nhân: Dương Văn Mơ và Phi Quang Bộ, cùng quê chị thực hiện, với chiều dài đường kính khi mở ra dài 9m, nan quạt cao tới 4,5m. Đúng là một cái quạt phi thường. Nói đến tấm bằng xác nhận kỷ lục của mình, ông Mơ cũng tỏ ra tự hào, nhưng rồi niềm vui chẳng được tày gang, ông vẫn khắc khoải về cái mất cho cả làng, đó là nghiệp của Chàng Sơn quê hương.

Bỗng dưng trong tôi hình ảnh cô gái của cái ngày xưa ấy trên chiếu chèo sân đình hiện lên với các động tác biến hoá và tạo nên hồn cốt của chiếc quạt trong bao ước lệ. Khi xoè khi khép, khi là trang sách đề thơ, khi lại là mây bay, sóng tình cuộn chảy trong điệu múa quạt làm sững sờ lòng người. Chả thế mà nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã phải vịnh về chiếc quạt rằng:

“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy

Chúa dấu vua yêu một cái này”

Hay bà còn ví von đến gợi tình:

“Chành ra ba góc da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

Mát mặt anh hùng khi tắt gió

Che đầu quân tử lúc sa mưa

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa”

Thật đã! Quạt là như thế. Nó gắn bó với con người từ lâu đời và mang bao nỗi niềm của con tim. Nó là gió. Nó là tình. Nó là múa ca và nó còn là niềm vui của sự sống được gửi trao. Nỗi niềm ngậm ngùi của người già, của một thời miếng cơm manh áo, thật đáng chia sẻ. Một cuộc chia ly không chờ, không hẹn. Cái quạt nồng nàn tình nghĩa ấy với làn gió hương quê đã bỏ ta đi...

Khi vừa bước ra khỏi miếu thờ ông Đầu Quạt, tôi chợt dừng chân đứng ngẩn ngơ ở giữa phố Hàng Quạt, vì chợt nhớ tới giọng hát của cô đào chèo nỉ non rằng: “Đêm khuya gió quạt trăng tàn - Trách con gà trống gáy tan tình cờ”. Và trước mắt tôi, hình ảnh lễ rước quạt ở làng Canh Hoạch hiện lên như một cuộc chia tay, vì nó cứ đi xa hun hút, mờ ảo trên cánh đồng làng. Lúa đã bắt đầu trổ đòng màu cốm. Một làn gió thơm đâu đó chợt lùa đến, quạt mát lịm những ký ức trong tôi./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên