Về bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay”

VOV.VN -117 năm qua, truyền thống yêu nước, truyền thống dạy tốt, học tốt được các thế hệ thầy và trò Quốc học Huế giữ gìn và phát huy.

Ngày 17/9/ Bính Thân (23/10/1896), nhà vua yêu nước Thành Thái đã ký sắc dụ thành lập một trường học quốc gia tại Huế cho người Việt Nam được học văn minh văn hóa phương Tây lấy tên là “Pháp tự Quốc học trường” thường gọi là trường Quốc học. Cái tên Quốc học mang hai nghĩa: Nền học của nước, nền học cho nước. ngày 18/11/1896, Toàn quyền A.Rousseau đã ký nghị định để thành lập trường.

Nhà xuất bản Văn hóa-thông tin vừa ấn hành bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay” (2013) do Hội cựu học sinh Quốc học Huế chủ trương. Ban biên tập gồm các nhà văn, nhà báo: Trần Phương Trà (chủ biên), Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Xuân Hoa, Phạm Khắc Lãm, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Hữu Lục.

Sách gồm 2 tập với 1612 trang khổ 16 x 24cm trong đó có 24 trang phụ bản màu với 830 mục từ, 100 cặp vợ chồng Quốc học Đồng Khánh – Huế. Mỗi mục từ là một thầy trò cũ với đôi nét về tiểu sử, hình ảnh. Cuốn sách có 133 bài viết và hồi ký, 155 bài thơ, 1460 bức ảnh, 15 bức tranh, tượng ảnh, 20 bản nhạc, 17 bút tích, 40 bìa sách, đặc san, 11 bản sao học bạ, công văn, giấy giá thú, lệnh bắt, trang báo, sơ đồ.

Qua cuốn sách, người đọc có thể hình dung được một phần những hoạt động của thầy trò trường Quốc học Huế trong hơn một thế kỷ đầy biến động và hiểu một phần nào những đóng góp của các thế hệ thầy trò.

Lúc đầu, trường tạm dùng một số nhà tranh của Tả Doanh Thủy Sư ở phía Đông tòa Công Sứ, phía tây Phủ Doãn. Về sau trường xây dựng hai dãy lầu có các phòng, ký túc xá, nhà học, phòng ăn, phòng tắm, sân vận động.

Đến niên khóa 1935 – 1936, trường Quốc học Huế đổi tên thành Lycée Khải Định, trường có thêm ban Tú tài tức thêm 3 lớp tương đương 10, 11, 12 hiện nay. Học sinh lớp 11 cuối niên khóa thi Tú tài bán phần. Lớp 12 chia làm 2 ban: Ban Triết lý và Ban toán. Cuối niên khóa hai lớp này thi Tú tài toàn phần ban Triết lý hay Ban Toán.

Trong niên khóa đầu, học sinh các lớp 11, 12 của Lycée Khải Định rút từ trường Albert Sarraut ở Sài Gòn và trường Bưởi ở Hà Nội. Cuối niên khóa 1936 – 1937, trường có thể tổ chức thi Tú tài bán phần và Tú tài toàn phần.

Sau cuộc đảo chính Nhật 9/3/1945, Ban Quản trị giáo sư là người Việt Nam. Các chương trình giảng dạy đều được chuyển sang dạy bằng tiếng Việt.

Sau Hiệp định Sơ bộ ngày 6/03/1946, Việt Nam phải để đoàn quân Viễn chinh Pháp sử dụng các cơ sở trường Quốc học, học sinh phải tiếp tục học ở Đại nội.

Chiến tranh Việt – Pháp xảy ra ngày 19/12/1946. Một phần giáo sư học sinh Khải Định tản ra phía Bắc (Quảng Bình, Hà Tĩnh). Phần còn lại lúc hồi cư năm 1947 đã học nhờ ở trường Thượng Tứ (trường Paul Bert cũ) và trường Lê Lợi (trường Chaigneau cũ).

Niên khóa 1948 – 1949 trường Quốc học sử dụng được trường ốc Việt – Anh và nhà lầu phía tây trường Đồng Khánh.

Sau Hiệp định Genève 20/07/1954, Pháp rút quân khỏi trường Quốc học. Trường sử dụng lại cơ sở ấy và hoàn trả nhà lầu phái tây trường Đồng Khánh. Năm học 1955 – 1956 trường được đổi tên là trường Trung học Ngô Đình Diệm, tên của Tổng thống Việt nam Cộng hòa đương thời.

Đến ngày 26/12/1956 trường tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 60 năm thành lập trường và đổi thành trường Quốc học cho đến nay.

Trường Quốc học Huế tồn tại và phát triển đến nay được 117 năm. Mặc dầu ra đời trong âm mưu nô dịch văn hóa của Thực dân Pháp, hoạt động của nhà trường nằm trong vòng ràng buộc của chính quyền đô hộ song các thế hệ thầy và trò Quốc học Huế trong quá trình tiếp thu những thành tựu giáo dục của thế giới hiện đại đã biết vận dụng những giá trị nhân văn, những giá trị khoa học để bảo vệ truyền thống văn hiến của dân tộc, tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Từ phong trào chống thuế ở Trung Kỳ vào đầu thế kỷ XX, cuộc vận động thả cụ Phan Bội Châu, để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh, phong trào Mặt trận Dân Chủ (1936 – 1939), Cao trào Việt Minh và cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, thầy và trò Quốc học Huế luôn luôn là những thành viên tích cực.

Trong 117 năm qua, truyền thống yêu nước, truyền thống dạy tốt, học tốt được các thế hệ thầy và trò Quốc học Huế giữ gìn và phát huy.

Trường Quốc học Huế là trung tâm đào tạo chất lượng cao cho miền Trung. Năm 2003, được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là trường Trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia giai đoạn (2001 – 2010) được tặng hai Huân chương Độc lập hạng Nhất (1996, 2006), được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” (2003)…

Trường Quốc học Huế mãi mãi còn ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều thầy và trò của trường: Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh), Trần Phú, Bùi Công Trừng, Nguyễn Chí Diểu, Hà Huy Tập, Lê Văn Miến, Võ Liêm Sơn, Phạm Văn Đồng, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Lân, Nguyễn Thúc Hào, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Khương Hữu Dụng, Điềm Phùng Thị, Nguyễn Văn Thương, Trần Hoàn, Nguyễn Văn Trương, Đào Thế Tuấn… cùng nhiều tướng lĩnh, nhà khoa học, văn hóa giáo dục, văn nghệ sĩ tài năng khác…

Cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” đã giới thiệu nhiều  vị sĩ quan, anh hùng, liệt sĩ vốn là cựu học sinh Quốc học Huế.

Các anh hùng lao động Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đào Thế Tuấn, Phan Thế Phương, Nguyễn Văn Trương cùng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo (Đại tá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại tá Việt Nam Cộng hòa). Nhiều sĩ quan, cán bộ vốn là học viên trường Thanh niên Tiền Tuyến do Luật sư Phan Anh và Giáo sư Tạ Quang Bửu sáng lập năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp được Ban Biên tập chú ý tìm hiểu và khai thác tư liệu trong đó có ông Võ Sum Đại tá Việt Nam Cộng hòa đã mất tại Mỹ.

Các hồi ký của Lê Thanh Cảnh, Bùi Hữu Thứ, Phạm Nghi, Lê Đình Phu, Nguyễn Hữu Hoằng, Nguyễn Đắc Xuân….đưa ta về những kỷ niệm về trường và không khí xã hội Huế thế kỷ 20.

Các hồi ký của Trần Thị Như Mân (bà Đào Duy Anh), Đặng Nhật Minh (“Cha mẹ tôi” viết về ông bà GS.Bác sĩ Đặng Văn Ngữ - Tôn Nữ Thị Cung), với nhiều hình ảnh xúc động. Hồi ký Bùi Công Trừng cho ta biết về những năm tháng hoạt động của ông ở Liên Xô cũ và khi bị thực dân Pháp bắt giam ở Sài Gòn, Côn Đảo. Lê Tâm (Nguyễn Hy Hiền) – Giải thưởng Hồ Chí Minh có hồi ký đầy ắp những kỷ niệm những năm sản xuất vũ khí cho Nam Bộ kháng chiến, Hồi ký Lê Quang Vịnh viết về những năm tháng u tối trong vùng tạm chiếm…

Trong “Phòng thí nghiệm số 1 Chu Lễ”, nhà giáo Ưu tú Thân Trọng Ninh đã dựng lại khung cảnh điều chế Acid Sulfurique (H2SO4) của GS Phạm Đình Ái những năm đầu kháng chiến chống Pháp…

Tôn Thất Hoàng (Nguyễn Phước Hoàng) có một hồi ký cảm động về GS. Tạ Quang Bửu. Giáo sư Nguyễn Hữu Thứ có bài viết rất hay: “Vấn đề thẩm mỹ ở trường Quốc học Huế”.

Bài viết của Trần Mạnh Thường về Đại tướng Võ Nguyên Giáo với những tư liệu chuẩn xác về vị tướng huyền thoại.

Trong sách có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế như:

- Hồ Đình Duẩn giải ba Toán tại Rumani năm học 1978 – 1979.

- Lê Bá Khánh Trình, giải nhất và giải đặc biệt Toán tại Anh năm học 1978 – 1979.

- Ngô Phú Thanh (học sinh lớp 11) giải nhì Toán tại Hungary năm học 1981 – 1982.

- Nguyễn Văn Lượng, giải nhì toán tại Pháp năm học 1982 – 1983.

- Hoàng Ngọc Chiến, giải ba toán tại Pháp năm học 1982 – 1983.

- Lê Thị Ý Nhi, giải nhì Olympic tiếng Nga tại Liên Xô năm 1983 – 1984.

- Hồ Ngọc Hân vô địch Đường lên đỉnh Olympia năm 2009, được suất du học Úc 35000 USD.

- Gần đây nhất là Đinh Anh Minh, huy chương vàng Olympic Vật lý Quốc tế tại Cộng hòa Croatia cuối tháng 7/2010

Đinh Anh Minh

Ngôi trường Quốc học Huế trang nghiêm với chiếc cổng cổ kính, những hàng cây cổ thụ xanh mướt, hai dãy lầu cao sơn màu hồng trên một khuôn viên rộng 5 hecta, di tích lịch sử văn hóa mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ trong tâm hồn các thế hệ thầy và trò của trường.

Nhà thơ Tế Hanh tha thiết:

Ta kiếm hình xưa ở khắp đường
Nụ cười bằng nắng, mắt bằng sương
Mười lăm, mười sáu, chàng trai nhỏ
Theo mộng, theo thơ bước tới trường

… Người hãy trả cho ta tuổi nhỏ.
Xứ tình, xứ mộng của ta ơi!

Nhà thơ Huy Cận luôn tự hào với danh hiệu “Học sinh cũ của trường Quốc học Huế”. Ở bài thơ “Quốc học trường ta, Quốc học ơi!, nhà thơ kết thúc:

Mỗi thầy để lại ở trong tôi
Cái vốn yêu thương, cái vốn người.
Nghĩa bạn, ơn thầy lòng mãi nặng
Ngàn năm Quốc học của ta ơi!

Trường PTTH chuyên Quốc học Huế (ảnh: Nguyễn Thành Công)

Ban biên tập đã dành nhiều trang để giới thiệu các hoạt động sôi nổi và phong phú của các hội ái hữu Quốc học Huế từ năm 1938 đến nay. Nhiều đặc san của các khóa học, các vùng trong và ngoài nước đã thắt chặt thêm sợi dây thân ái của tình Đồng môn Quốc học Huế.

Bộ sách giành giới thiệu hơn một trăm cặp vợ chồng Quốc học – Đồng Khánh Huế. Hai ngôi trường Quốc học – Khải Định (Trường Anh) và trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế (Trường Em) nằm cạnh nhau có mối quan hệ mật thiết trong đời sống xã hội ở Huế. Mơ ước có một ý trung nhân sau này là người vợ công dung ngôn hạnh vốn là nữ sinh trường Đồng Khánh là ước mơ của nhiều học sinh trường Quốc học Huế. Trường Đồng Khánh được thành lập năm 1917. Giữa thế kỷ 20 có nhiều đôi vợ chồng Quốc học – Đồng Khánh để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp ở Huế không thể không nhắc đến những đôi Thân Trọng Phước – Hoàng Thị Vệ, Đào Duy Anh – Trần Thị Như Mân, Hà Huy Tập – Nguyễn Thị Giáo (trong sách có bản giá thú của đôi vợ chồng này, có chữ ký của Công sứ tỉnh Hà Tĩnh năm 1928), Võ Nguyên Giáp – Nguyễn Thị Quang Thái (người vợ đầu của Võ Nguyên Giáp đã hy sinh trong tù), Lưu Trọng Lư – Tôn Nữ Lệ Minh; Đặng Văn Ngữ - Tôn Nữ Thị Cung, Cao Văn Khánh – Nguyễn Phước Ngọc Toản cùng nhiều cặp đôi khác.

Trong sách có gần 100 thầy trò cũ của trường Quốc học Huế đã và đang ở nước ngoài chủ yếu ở Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Đức, Úc… Ở Pháp có Cao Huy Thuần, Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Khắc Nhẫn, Trần Thanh Vân, Phạm Đình Liên, Võ Quang Yến, Lê Đình Cát, Nguyễn Thị Gi Gi, Công Huyền Tôn Nữ Quỳnh Tư… Giáo sư E.G Vidal dạy sinh vật trường Quốc học Huế năm 1994 được học sinh cũ mời thăm lại Việt Nam hiện đã 99 tuổi.

Ở Hoa Kỳ có Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Văn Lâu, Lê Văn, Bùi Minh Đức, Bùi Hữu Tiễn - Phạm Thị Bạch Vân, Bửu Diên – Phạm Thị Hoàng Oanh, Trần Kiêm Đoàn, Huỳnh Văn Chỉnh, Đoàn Khoách - Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Hứa Thảo, Nguyễn Văn Đáo, Đoàn Trình, Vĩnh Quyền, Nguyễn Đắc Bích, Đỗ Kim Bảng, Lâm Bàng, Nguyễn Xuân Thiệp, Khang Lang v.v..

Ở Canada có Nguyễn Hữu Thứ, Nguyễn Ký, Phạm Mạnh Cương, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thị Diên Chi, Vĩnh  Sính, Huỳnh Hữu Tuệ v.v..

Ở Đức có Thái Kim Lan, Nguyễn Ba v.v…

Ở Úc có Hoàng Nguyên Nhuận…

Trong “Thi nhân Việt Nam” xuất bản năm 1941 các nhà văn Hoài Thanh và Hoài Chân đã giới thiệu 45 nhà thơ trong phong trào thơ mới (1932 – 1941).

Trong 45 nhà thơ của cả nước hồi ấy có 13 nhà thơ đã từng học ở trường Quốc học Huế. Đó là các nhà thơ: Bích Khê, Huy Cận, Lưu Kỳ Linh, Lưu Trọng Lư, Nam Trân, Nguyễn Đình Thư, Phạm Hầu, Phan Thanh Phước, Phan Văn Dật, Tế Hanh, Thúc Tề, Xuân Diệu, Xuân Tâm. Cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” đã đăng 155 bài thơ, ngoài các nhà thơ nói trên, còn có nhiều tác giả khác như Võ Liêm Sơn, Ưng Bình Thúc Gia Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vy, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Khương Hữu Dụng, Bùi Công Trừng, Gia Ninh, Vĩnh Mai, Nguyễn Đình, Võ Quê, Đào Xuân Quý, Lương An, Võ Quảng, Nguyễn Xuân Thâm, Châu Liêm Nguyễn Xuân Thiệp, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long, Ngô Kha, Tường Phong Nguyễn Đình Niên, Sâm Thương, Tạ Ký, Trần Hoàng Phố (Bửu Nam), Tống Viết Mẫn, Nguyễn Văn Thích, Tần Hoài Dạ Vũ, Trần Hữu Lục, Phan Như, Phan Hữu Dật, Phan Xuân Hạt, Tôn Thất Mạnh Hào, Mai Văn Hoan, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Phạm Quất Xá, Quách Thoại, Phạm Nguyên Tường, Tôn Thất Viễn Bào, Trần Ngọc Trác, Mai Khắc Thuận, Võ Văn Bang, Nguyễn Mỹ Tài, Ngũ Xa Thơ, Hoàng Triều, Hoàng Xuân Độ v.v..

Trong cuốn “Quốc học Huế xưa và nay” có đăng 20 bản nhạc của các nhạc sĩ: Châu Kỳ, Đỗ Kim Bảng, Hoàng Nguyên, Hoàng Thi Thơ, Lê Mộng Nguyên, Lê Xuân Thọ, Nguyễn Đình Niêm (thơ Lê Ngã Lễ) Nguyễn Hứa Thảo (Thảo Nguyên, thơ Tần Hoài Dạ Vũ), Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Phú Yên, Nguyễn Phước Quỳnh Đệ, Nguyễn Văn Thương, Phạm Mạnh Cương, Phạm Tuyên, Tôn Thất Lan, Tôn Thất Lập, Trần Đình Quân (Trần Đa Mỹ), Trần Hoàn, Trần Ngọc Tĩnh (Phan Xipăng), Ưng Lang (Lời Châu Kỳ).

Trong phụ bản có đăng các bức tranh, tượng và ảnh của các tác giả: Bửu Chỉ, Điềm Phùng Thị, Lê Duy Đoàn, Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), Mai Trung Thứ (Mai Thứ), Mai Văn Hiến, Nguyễn Hữu Ngô, Nguyễn Phan Chánh, Phan Khắc Tuân, Tấn Hoài, Thân Trọng Minh, Tôn Nữ Như Ngân, Tôn Thất Đào, Võ Thị Quỳnh.

Bộ sách “Quốc học Huế xưa và nay” đã giới thiệu được những học sinh khóa đầu tiên năm 1896, thi đậu thành chung (đíp lôm) năm 1900 như Hồ Đắc Hàm, Ưng Dự, Tôn Thất Quảng và cuối cùng là em Nguyễn Ngô Bảo Ngọc sinh năm 1995, lớp 12 chuyên Anh – Pháp trường THPT chuyên Quốc học Huế, quê xã Phong Chương huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế là thủ khoa có tổng số điểm 6 môn cao nhất tỉnh và toàn quốc (59 điểm, 5 điểm 10 và 1 điểm 9 môn văn) kỳ thi tốt nghiệp THPT khóa 2012 – 2013 (ảnh: Thừa Thiên Huế online).

Những học sinh khóa đầu tiên năm 1896, thi đậu thành chung năm 1900

Học sinh thế hệ mới nhất: Nguyễn Ngô Bảo Ngọc, Thủ khoa tốt nghiệp với số điểm 59 (niên khóa 2012-2013)

Hình ảnh em Nguyễn Ngô Bảo Ngọc kết thúc tốt đẹp một hành trình 117 năm đầy biến động của ngôi trường Quốc học Huế để mở ra những trang mới của các thế hệ thầy và trò của trường./.
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Mời hiến kế chấn hưng giáo dục
Mời hiến kế chấn hưng giáo dục

VOV.VN - VOV chào đón mọi ý kiến của độc giả, các nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà quản lý... góp phần đổi mới nền giáo dục nước nhà

Mời hiến kế chấn hưng giáo dục

Mời hiến kế chấn hưng giáo dục

VOV.VN - VOV chào đón mọi ý kiến của độc giả, các nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà quản lý... góp phần đổi mới nền giáo dục nước nhà

Lạm thu ở trường học: Bàn cách khắc phục
Lạm thu ở trường học: Bàn cách khắc phục

VOV.VN-Bộ GD-ĐT cần quy định rõ trách nhiệm cũng như cơ chế kiểm soát các khoản thu- chi cho địa phương và hiệu trưởng trường học.

Lạm thu ở trường học: Bàn cách khắc phục

Lạm thu ở trường học: Bàn cách khắc phục

VOV.VN-Bộ GD-ĐT cần quy định rõ trách nhiệm cũng như cơ chế kiểm soát các khoản thu- chi cho địa phương và hiệu trưởng trường học.

Rà soát lại nội dung về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Rà soát lại nội dung về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

VOV.VN - Cùng với đó sẽ chỉnh sửa một số bài soạn minh hoạ có quá nhiều hoạt động, khó có thể thực hiện trong tiết học

Rà soát lại nội dung về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

Rà soát lại nội dung về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

VOV.VN - Cùng với đó sẽ chỉnh sửa một số bài soạn minh hoạ có quá nhiều hoạt động, khó có thể thực hiện trong tiết học