Quyền con người được đề cao trong Hiến pháp sửa đổi
VOV.VN-Hiến pháp được thông qua tại kỳ hợp thứ 6, Quốc hội khóa XIII có nhiều điểm mới, trong đó có hiến chương về quyền con người.
Hiến pháp cũng quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ những quyền đó thực hiện một cách tốt nhất. Để làm rõ về nội dung này, phóng viên Đài TNVN đã phỏng vấn ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội.
PV: Trong bản Hiến pháp sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua có 1 điểm nhân dân cả nước rất đồng tình ủng hộ và coi đây là 1 điểm sáng, đó là hiến chương về quyền con người. Xin ông cho biết một số những nét cơ bản trong hiến chương về quyền con người?
Ông Đinh Xuân Thảo: Điều 12 chương I là nước CHXHCN Việt Nam tôn trọng hiến chương LHQ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy, chúng ta tôn trọng với nguyên tắc đó thì khi xây dựng Hiến pháp này với chương 2 quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân, thì có 2 phần thể hiện rõ. Trước hết, liên quan đến quyền con người. Quyền con người là quyền cơ bản, quyền tự nhiên vốn có của mỗi con người từ lúc sinh ra. Quyền đó được sắp xếp theo một trình tự từ quyền về chính trị, quyền về dân sự, quyền về kinh tế, văn hóa - xã hội. Sau đó đến quyền công dân, trong Hiến pháp thể hiện rõ ở chỗ khi nói đến quyền con người thì dùng từ “mọi người”, khi nói đến công dân Việt Nam thì dùng là “công dân”, công dân được làm gì, không được làm gì...
Ông Đinh Xuân Thảo |
Trước khi đi vào chương 2 quy định về quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân thì có 3 điều quy định mang tính là nguyên tắc về cách thức thể hiện cũng như nội hàm của quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Trước hết, mở đầu từ điều 14 chương 2 đã khẳng định: “Ở nước CHXHCN Việt Nam, quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế - văn hóa – xã hội được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ”. Và cũng tại điều 14 ở đoạn 2, khoản 2 nói rõ quyền công dân cơ bản chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp đặc biệt cần thiết, mà việc hạn chế đó phải hạn chế bằng luật. Thứ 2 là trong trường hợp vì những lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng, sức khỏe cộng đồng, đạo đức xã hội… Đó là những lý do đặc biệt có thể hạn chế quyền con người. Những thay đổi mới so với Hiến pháp 1992 về việc hạn chế quyền con người là phải bằng luật, chứ không thể bằng văn bản dưới luật.
Ví dụ như quyền tự do biểu tình, khi Hiến pháp đã quy định biểu tình là một quyền tự do của người dân, thế thì việc người dân thực hiện biểu tình như thế nào, theo trình tự nào? Phải đăng ký với ai? Phải xin phép ai? Phải tiến hành trình tự thủ tục ra sao thì việc đó phải theo quy định của pháp luật. Nghĩa là với văn bản dưới luật cũng có thể bằng 1 nghị định, 1 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có thể hướng dẫn cho ta cách thức đi biểu tình. Nhưng việc cấm không cho người ta đi biểu tình thì chỉ có bạo lực chứ không thể chỉ bằng một nghị định cấm người ta đi biểu tình. Quyền đi liền với nghĩa vụ, và để đảm bảo quyền cho người này thì tất nhiên nghĩa vụ của người kia, nghĩa là khi thực hiện quyền của mình thì cũng không được lạm dùng quyền làm ảnh hưởng đến quyền của người khác.
Tiếp nữa, đi vào các quyền cụ thể như là quyền có quốc tịch. Đây cũng là một quyền quan trọng mà trước đây chúng ta chưa quy định rõ. Hiện nay, trong quan hệ hội nhập ngày càng sâu rộng thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài sống ở Việt Nam, vấn đề quốc tịch được xác định tại điều 17 là công dân CHXHCN Việt Nam là người quốc tịch Việt Nam, bởi vì quốc tịch là điều quan trọng, nó thể hiện chủ quyền, quyền lực của nhà nước, quan hệ giữa người dân với nhà nước. Khái niệm quốc tịch là tình trạng của cá nhân thuộc về nhà nước, mà quyền lực của nhà nước bao trùm lên cá nhân đó, tạo cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định.
Thứ hai, ở đây có 1 điều quy định liên quan đến quyền sống. Tức là mọi người đều có quyền sống, Nhà nước thừa nhận quyền sống của mỗi người như 1 quyền tự nhiên, là một quyền rất là quan trọng gắn bó với mỗi con người để từ đó để thấy quyền sống là 1 khắc thể thiêng liêng, rất là quan trọng mà pháp luật phải bảo vệ, phải tôn trọng. Thế thì việc tước đoạt sinh mạng sống của mỗi người là chỉ theo quy định của luật, và cụ thể ở Việt Nam thì chỉ có bộ luật hình sự trong đó có quy định tội có mức án tử hình thì mới có thể tước đoạt mạng sống trong trường hợp đó thôi.
Sau đó nữa đến những quyền chính trị như: quyền tham gia bầu cử, ứng cử tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thì đó cũng là những quyền rất quan trọng. Trong Hiến pháp lần này quy định rất rõ, mọi người đều có quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, có quyền bình đẳng trước pháp luật. Vấn đề ở đây là quyền thì nhiều nhưng để thực hiện nó ra sao mới quan trọng, thể hiện trách nhiệm của nhà nước. Khi mà xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thì cũng đã đặt ra nhiều luồng ý kiến, nói rằng đặt trách nhiệm của ai lên đầu, là nhà nước, hay là gia đình, xã hội hay từng cá nhân…Khi nói đến Hiến pháp, nói đến quan hệ giữa công dân và nhà nước thì ở đây nhân dân trao quyền lực cho nhà nước, thì trước hết mọi trách nhiệm nhà nước phải đặt lên đầu tiên, nhà nước phải bảo đảm, bảo vệ, tôn trọng quyền của mỗi công dân. Nghĩa là từ 1/1/2014, Hiến pháp này có hiệu lực thì những quyền mà Hiến pháp thừa nhận đối với con người, mỗi công dân, thì mặc nhiên nó có giá trị trên thực tế cho đến giờ phút này.
PV: Thưa ông, như ông nói ở trên, Hiến pháp đã không còn các quy định theo cách thức Nhà nước thừa nhận các quyền con người mà quyền con người ở đây được thừa hưởng một cách mặc nhiên, và nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cũng như bảo vệ những quyền đó thực hiện một cách tốt nhất. Vậy chúng ta đã có thời gian, tranh luận thế nào để có thể đi đến được một quy định tiến bộ như vậy?
Ông Đinh Xuân Thảo: Việc quyền và nghĩa vụ con người gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hôi, có thể nói nhận thức vai trò, vị trí của người dân kể từ khi chúng ta dành được độc lập, và từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì xây dựng cũng đã thể hiện tinh thần xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta trước đây còn nhiều khó khăn, cho nên để có thể đảm bảo các quyền là cũng khó, phải từng bước nâng cao và mở rộng dần dần. Đến thời điểm này, khi chúng ta bước vào đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới kinh tế, từ đại hội 6, từ năm 1986 thực hiện cương lĩnh phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 thì kinh tế nước ta đã phát triển. Chúng ta đã vượt qua những thời kỳ nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một nước phát triển có thu nhập trung bình, đến cái lúc chúng ta có điều kiện mở rộng hơn, nâng cao hơn đời sống và việc đảm bảo quyền của công dân. Xuất phát từ đó, trong cương lĩnh xây dựng phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 và bổ sung phát triển năm 2011 đã đề ra những mục tiêu cụ thể mà trong đó đặc biệt liên quan đến quyền con người, quyền công dân là phải được tôn trọng, và bảo đảm, đưa lên một mức cao hơn. Và chính việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Bởi vì chính con người là chủ thể, điểm xây dựng của đất nước nên khi lợi ích của con người được bảo đảm thì rõ ràng nó sẽ làm cho sự phát triển của xã hội ngày càng tốt hơn.
PV: Thưa ông, một quy định nữa là bản Hiến pháp sửa đổi cũng đã có quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội biểu tình. Đây là một trong những vấn đề mà trước đây chúng ta dường như không đề cập đến và đến nay bản Hiến pháp sửa đổi đã quy định rõ về vấn đề này. Ông có thể bình luận gì về quy định này?
Ông Đinh Xuân Thảo: Nói đến quyền công dân thì có rất nhiều khía cạnh, nhưng liên quan đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội biểu tình,… thì đây là những quyền rất là quan trọng về mặt chính trị. Những nội dung này thực ra ở những bản Hiến pháp trước đây cũng đã có quy định nhưng chưa được thực hiện bởi lẽ những quy định trong Hiến pháp thì chưa được cụ thể hóa bằng luật hay các văn bản dưới luật.
Lần này, ở điều 25 của Hiến pháp đã quy định rất rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp lập hội biểu tình và việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Nội dung “quy định” ở đây là để những quyền trên là quyền mặc nhiên, không ai có quyền hạn chế, và chỉ có thể hạn chế trong những lý do: Quốc phòng, an ninh quốc gia,…(đã nêu ở trên).
Bây giờ để mà thực hiện những quyền này, trong Hiến pháp cũng xác định bằng quy định và pháp luật, ngay khi Hiến pháp có hiệu lực, trong kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp, Ủy bản Thường vụ Quốc hội đã đưa ra một kế hoạch với ưu tiên đầu tiên là các luật liên quan về tổ chức để sửa đổi như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức kiểm sát nhân dân,…thì tiếp theo đó là các luật về quyền công dân và trước hết là tập trung vào những quyền về tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội biểu tình. Và cứ mỗi nội dung này sẽ có một điều luật, dự kiến những điều luật đó đã được đưa vào trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa 13. Nghĩa là từ nay đến năm 2016, phải cố gắng để sớm ban hành những điều luật này vào trong thực tế chứ không để như tình trạng những quy định của Hiến pháp 1992 qua 20 năm thi hành hiến pháp mà vẫn không triển khai thực hiện được. Vậy đây là nội dung rất quan trọng, và vấn đề bây giờ là để tổ chức thực hiện như thế nào cần phải có những quy định của những văn bản luật và dưới luật cụ thể để hướng dẫn cách thức thực hiện.
PV: Thưa ông, Hiến pháp năm 2013 về cơ bản đã tiếp thu quy định của các công ước quốc tế về chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa và tuyên ngôn nhân quyền năm 1948. Vậy thì điều này sẽ giúp Việt Nam thực hiện những nghĩa vụ và cam kết của một quốc gia thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ mà chúng ta vừa gia nhập như thế nào?
Ông Đinh Xuân Thảo: Đây cũng là 1 nội dung quan trọng trong đường lối đối ngoại quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Vừa rồi, trước khi để LHQ bầu nước ta vào Hội đồng nhân quyền với số phiếu cao thì LHQ cũng đã cử một số đoàn đến Việt Nam để nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình liên quan đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Chúng tôi đã có dịp đón tiếp và làm việc trực tiếp với 2 đoàn đến tìm hiểu, chúng tôi đã phân tích, chứng minh cho bạn bè quốc tế thấy rằng Đảng và nhà nước Việt Nam đang rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Điều được thể hiện tiến bộ nhất, rõ nhất là việc xây dựng Hiến pháp mới, là gốc đạo luật cơ bản của nhà nước. Và lúc đó chúng tôi đã nêu ra những nội dung trong chương 2 của Hiến pháp, nó thể hiện rõ sự cầu thị, sẵn sàng lắng nghe tiếp thu các ý kiến đóng góp của bạn bè quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, tại Hà Nội thông qua đại diện của UNDP đã có hẳn 1 bản kiến nghị đề nghị phải quy định những điều khoản cụ thể trong chương 2, chương về quyền con người và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Rõ ràng là những nguyên tắc cơ bản trong những điều luật quốc tế về nhân quyền như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nguyên tắc suy đoán người vô tội… Những nội dung liên quan đến quyền tự do của con người đã đều được đưa vào chương 2, tất nhiên là chỉ chọn những quyền cơ bản nhất…
PV: Vâng xin trân trọng cảm ơn ông!./.