“Tôi chứng kiến nhiều đổi thay của Việt Nam“
VOV.VN - Nguyên lãnh sự Nga tại TPHCM và Đà Nẵng: Tôi đã chứng kiến khá nhiều đổi thay của đất nước Việt Nam, đó là những đổi thay rất tích cực
Đất nước và nhân dân Việt Nam đang tưng bừng không khí chào mừng kỷ niệm tròn 70 năm Ngày Độc lập, cũng là ngày thành lập nước và ngày thành lập nhiều bộ, ngành quan trọng, trong đó có ngành Ngoại giao.
Bạn bè Nga, vào dịp này cũng chia sẻ niềm vui và đưa ra những đánh giá tích cực về Việt Nam, về hoạt động đối ngoại của đất nước.
Phóng viên VOV phỏng vấn ông Vselovot Okpush, nguyên Tổng lãnh sự Nga tại TPHCM và Đà Nẵng |
PV: Thưa ông, ngày 2/9/2015, Việt Nam kỷ niệm tròn 70 năm độc lập, Ngày Quốc khánh của chúng tôi. Ông có thể nói gì về đất nước Việt Nam qua quá trình phát triển 70 năm qua?
Ông Vselovot Okpush: Lần đầu tiên tôi đến Việt Nam là cách đây 30 năm, khoảng năm 1985. Đến năm 1995, năm cuối cùng tôi công tác tại Việt Nam, tôi đã được chứng kiến khá nhiều đổi thay của đất nước Việt Nam từ sau ngày độc lập. Đó là những đổi thay rất tích cực, đổi thay trên mọi lĩnh vực mà trước hết là chính trị và chính trị ngoại giao trên trường quốc tế. Trong đó có các mối quan hệ với các nước láng giềng và với cả thế giới. Đó còn là thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế mà khó có quốc gia nào trên thế giới đạt được những bước tiến dài như thế trong một thời gian ngắn như vậy.
Rất nhiều đổi thay diễn ra trước mắt tôi. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, công nghiệp... đã đạt được rất nhiều thành tựu trong thời gian qua. Nhưng điều ấn tượng rất mạnh mẽ với tôi là sự lớn mạnh của Đà Nẵng. Các bạn cũng biết mảnh đất miền Trung của Việt Nam phát triển chậm hơn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng đến đầu những năm 2000, khi quay trở lại, tôi đã được chứng kiến những đổi thay to lớn của thành phố Đà Nẵng, các quận, huyện và các tỉnh lân cận của Đà Nẵng như Thanh Khê, Liên Chiểu, như Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi... Tôi đã may mắn có dịp được tham dự các lễ động thổ hoặc khai trương nhiều công trình hợp tác xây dựng giữa Việt Nam với Liên Xô mà sau này là Nga, như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, công trình xây dựng nhà máy thủy điện ở Kon Tum và tôi rất tự hào về điều đó.
Có thể nói, Đà Nẵng giờ đây đã trở thành một địa chỉ du lịch rất hấp dẫn với nhiều công trình tuyệt vời: đó là những khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí... Nhiều hoạt động văn hóa quốc tế cũng đã được tổ chức ở khu vực này như festival văn hóa dân gian ở Huế, ở Đà Nẵng... mà Nga cũng từng nhiều lần tham gia.
PV: Dịp này, ngành Ngoại giao của Việt Nam cũng kỷ niệm tròn 70 năm thành lập. Là một cán bộ ngoại giao từng công tác lâu năm ở Việt Nam, ông đánh giá thế nào về hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong 70 năm qua?
Ông Vselovot Okpush: Ngành Ngoại giao Việt Nam được thành lập và trưởng thành gắn liền với nước Việt Nam độc lập trong suốt 70 năm qua. Những thành tựu to lớn mà đất nước Việt Nam đạt được trong 70 năm qua, đặc biệt là trong 10 năm gần đây có phần đóng góp to lớn của ngành Ngoại giao Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, hoạt động ngoại giao trong cộng đồng thế giới là nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia. Đó là một ý nghĩa rất giản dị. Chúng ta cũng biết rằng, trong lịch sử Việt Nam và trong giai đoạn rất khó khăn của Việt Nam, ngành Ngoại giao trong mối quan hệ quốc tế phải thực hiện những cuộc đối thoại nhằm bảo vệ lợi ích của Việt Nam. Điều đó là rất quan trọng để hôm nay chúng ta được chứng kiến một đất nước tươi đẹp, phát triển thịnh vượng hơn. Ý nghĩa chính của hoạt động ngoại giao là ở chỗ nó thiết lập cơ sở pháp lý quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ nền độc lập.
Một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng của ngành Ngoại giao là phát triển các mối quan hệ với nước khác, với các khu vực và cả thế giới, phát triển quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, nhân văn, khoa học, văn hóa... Và ở đây chúng ta cũng thấy được là có rất nhiều thành tựu của các hoạt động ngoại giao, của các nhà ngoại giao Việt Nam.
Nếu nói về cảm nhận của cá nhân mình, tôi muốn nhắc đến những cuộc gặp gỡ, những tiếp xúc với những người mà về sau, nhiều người trong số họ đã trở thành bạn, thành đồng chí của tôi, những người từng công tác ở các Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán, ở Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi đã 2 lần làm Tổng Lãnh sự ở thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng suốt 10 năm liền, tôi có nhiều dịp được gặp Bộ trưởng, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam và tôi đã cảm nhận được rằng, trong câu chuyện với tôi, các vị lãnh đạo ngành ngoại giao hướng đến tôi không phải chung chung là tới Chính phủ hay Nhà nước Nga mà là hướng đến một con người cụ thể mang trọng trách của quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng.
Tại các thành phố này, hoạt động ngoại giao thông qua Sở Ngoại vụ và công việc được tiến hành rất chuyên nghiệp với những con người rất thú vị. Họ là những con người rất hiểu biết, rất có chí tiến thủ nhằm thực hiện thật tốt công việc của mình, dù đó là công tác lãnh sự hay là các mối quan hệ kinh tế, quan hệ về văn hóa, giáo dục... rồi cả việc liên quan đến các sinh viên Việt Nam học tiếng Nga hoặc sinh viên Nga học tiếng Việt...
Nói chung, trong mọi công việc có dịp cùng làm, chúng tôi đều có sự thấu hiểu lẫn nhau và rất ủng hộ nhau, luôn hướng đến kết quả tốt nhất trong công việc chung.
PV: Nhìn lại hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong 70 năm qua có điều gì khiến ông ấn tượng và theo ông ngoại giao Việt Nam đóng góp thế nào trong thúc đẩy quan hệ Nga - Việt?
Ông Vselovot Okpush: Có một khái niệm nữa rất quan trọng ngoài ý nghĩa về sự chuyên nghiệp trong công việc đó là ngoại giao nhân dân. Tôi nghĩ rằng, ở Việt Nam, hoạt động này diễn ra đồng thời và đây là hình thức hoạt động mang tính cởi mở, phát triển sâu rộng đến mọi tầng lớp dân chúng. Tôi cho rằng, thành tựu của ngoại giao nhân dân ở Việt Nam không ít hơn ngoại giao chính thống.
Chúng ta đã từng chứng kiến phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam diễn ra trên khắp thế giới. Đặc biệt ở Mỹ đã có rất nhiều cuộc tuần hành phản đối chiến tranh và bày tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam anh hùng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa vì độc lập, chủ quyền của Tổ quốc mình.
Bởi vậy, theo tôi, 70 năm có thể chưa phải là khoảng thời gian dài đối với một quốc gia, nhưng nó là một giai đoạn rất quan trọng của lịch sử đất nước Việt Nam khi nó được các thế hệ tiếp nối xây dựng. Được cả lãnh đạo đất nước, cả các tầng lớp nhân dân, từ già, trẻ mọi lứa tuổi cùng tham gia với một tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền lại. Tôi không nhớ chính xác câu chữ, nhưng đó là tư tưởng về chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, thịnh vượng cho dân tộc mà chính nhờ đó mọi người dân Việt Nam đã nghe theo, đi theo và giành được những thành tựu to lớn như vậy.
Ngoài ra, chính sách làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới mà Việt Nam theo đuổi là một chính sách phù hợp. Bản thân nước Nga chúng tôi cũng có cùng quan điểm và coi đó là chính sách hoàn toàn đúng đắn... Việt Nam, sau bao nhiêu năm chia cắt, sau bao khó khăn bởi chiến tranh, cấm vận sau chiến tranh... đã trở thành thành viên của ASEAN và ngày nay đóng vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực năng động vào bậc nhất của thế giới.
Hơn nữa, Việt Nam còn là điều phối viên trong quan hệ Nga – ASEAN. Các nhà lãnh đạo Nga luôn đánh giá rất cao vai trò này của Việt Nam. Ở đây, tôi không thể không nhắc đến một điểm nhấn trong quan hệ Nga – Việt, đó là khi tôi còn công tác ở thành phố Hồ Chí Minh, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước chúng ta mới đạt 500.000 USD thì năm 2014 đã đạt 3 tỷ USD và hai bên đang đặt ra mục tiêu đến năm 2020 sẽ đạt kim ngạch tới 10 tỷ USD. Và tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu này.
PV: Xin cảm ơn ông./.