Tập đoàn Điện lực Việt Nam: 10 thành tựu nổi bật giai đoạn 2010 - 2020
VOV.VN - Trong giai đoạn 2010-2020, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1. Đảm bảo cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân với chất lượng ngày càng cao, góp phần duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao nhiều năm liên tục
Giai đoạn 2010 - 2020, điện thương phẩm tăng trưởng với tốc độ cao, từ 85,4 tỷ kWh năm 2010 lên khoảng 225,4 tỷ kWh năm 2020; tốc độ tăng trưởng bình quân 9,66%/năm, gấp khoảng 1,6 lần so với tăng trưởng GDP. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế, với sứ mệnh “đi trước một bước” theo Nghị quyết của Đảng. Sản lượng điện thương phẩm bình quân trên người dân đến cuối năm 2020 ước tính đạt khoảng 2.200 kWh/người/năm, tăng 2,24 lần so với năm 2010 (982,7kWh/người/năm).
2. Hoàn thành xuất sắc vai trò chủ đạo trong đầu tư, phát triển nguồn và lưới điện; đảm bảo điện đi trước một bước trong công cuộc CNH - HĐH đất nước
Hệ thống điện quốc gia liên tục mở rộng phạm vi, quy mô và năng lực sản xuất, đáp ứng tốc độ tăng trưởng cao về nhu cầu điện của đất nước. Tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 2010 - 2019 là 1.033.843 tỷ đồng, gấp 4 lần so với giai đoạn 2000 - 2009 (257.130 tỷ đồng). Kế hoạch năm 2020, tổng giá trị đầu tư xây dựng ước đạt 88.340 tỷ đồng, trong đó giá trị đầu tư thuần đạt 54.442 tỷ đồng.
Về lưới điện: Trong giai đoạn 2010 - 2019, EVN đã hoàn thành đóng điện 1.936 công trình từ 110 - 500 kV với tổng chiều dài đường dây 8.290 km, tổng công suất các trạm biến áp (TBA) 26.123 MVA; đảm bảo đấu nối, truyền tải công suất phát các nguồn điện, tăng cường năng lực truyền tải của hệ thống. Đến hết năm 2020, hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới mọi miền của đất nước với trên 8.500 km đường dây 500kV, gần 20.000 km đường dây 220kV, hơn 23.000 km đường dây 110kV và 33 TBA 500kV, 137 TBA 220kV, 886 TBA 110kV.
Về nguồn điện: Giai đoạn 2010 - 2019, EVN đã đưa vào vận hành 21 dự án với tổng công suất 17.120MW, bằng 48% tổng công suất phát điện được đưa vào khai thác trong giai đoạn 2010 - 2019 trên toàn quốc. Từ chỗ chỉ có 31,5 MW công suất năm 1954, đến hết năm 2020 tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện quốc gia ước đạt trên 61.000 MW, trong đó công suất nguồn điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu là 29.638 MW.
3. Tỷ lệ tổn thất điện năng của hệ thống điện Việt Nam đã tiệm cận mức các quốc gia tiên tiến của thế giới
Nhờ thực hiện thành công nhiều giải pháp đồng bộ cải thiện các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tỷ lệ tổn thất điện năng toàn EVN đã giảm từ 10,25% (năm 2010) xuống 6,5% vào năm 2020. Như vậy, tính cả giai đoạn 2010 - 2020, tỷ lệ tổn thất điện năng của EVN giảm được 3,75%, bình quân mỗi năm giảm 0,34% và đã tiệm cận với mức tổn thất điện năng của các quốc gia tiên tiến trên thế giới.
4. EVN hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đưa điện về nông thôn, miền núi, hải đảo, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn an ninh chính trị, bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo
Đến cuối năm 2020 đã đưa điện tới 100% số xã và 99,54% số hộ dân có điện. Thực hiện tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn để bán điện trực tiếp đến từng hộ dân, EVN đã bán điện trực tiếp tới 10.285 xã phường, tăng tỷ lệ số hộ dân nông thôn được mua điện trực tiếp của ngành Điện từ 89,9% năm 2012 lên 93,7% năm 2020. Tổng chi phí cải tạo tối thiểu lưới điện sau tiếp nhận hơn 8.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, EVN đã hoàn thành xuất sắc các dự án cấp điện cho đồng bào dân tộc tại các tỉnh: Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Bắc Kạn; đưa lưới điện quốc gia vượt trùng khơi vươn tới các huyện đảo tiền tiêu tổ quốc với việc hoàn thành tiếp nhận và bán điện trực tiếp tại 11/12 huyện đảo, 82/85 xã đảo bao gồm: huyện đảo Vân Đồn (năm 1992), huyện đảo Cát Hải gồm 2 cụm đảo Cát Hải (năm 1991) và Cát Bà (năm 1998), huyện đảo Phú Quý (năm 1998), huyện đảo Lý Sơn (năm 2002), huyện đảo Phú Quốc (năm 2002), huyện đảo Cô Tô (năm 2013), huyện đảo Côn Đảo (năm 2014), huyện đảo Kiên Hải (năm 2014), huyện đảo Bạch Long Vỹ (năm 2016), huyện đảo Trường Sa và huyện đảo Cồn Cỏ (năm 2017).
5. Là doanh nghiệp tiên phong trong nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật điện, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiện nay, cơ khí Điện lực Việt Nam đã đủ khả năng sản xuất các sản phẩm đòi hỏi trình độ công nghệ và độ chính xác cao như: các máy biến áp 220kV công suất đến 250MVA, máy biến áp 3 pha 500kV - 467MVA, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á chế tạo được máy biến áp 500 kV; tự chế tạo, lắp đặt thiết bị cơ khí thủy công, kết cấu thép cho nhiều công trình thuỷ điện, nhiệt điện lớn, có tầm quan trọng quốc gia.
Công nghệ tự động hóa điều khiển, kỹ thuật số cũng được ứng dụng rộng rãi trong xây dựng và vận hành hệ thống điện, thị trường điện. Đến cuối năm 2020 EVN đã đưa vào vận hành 63 Trung tâm Điều khiển và thực hiện điều khiển xa không cần người trực 707 trạm biến áp 220 - 110kV (chiếm gần 83% tổng số trạm biến áp có kế hoạch chuyển đổi).
Lưới điện truyền tải và phân phối được đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng, như: Ứng dụng thiết bị điện tử công suất (SVC); áp dụng công nghệ chẩn đoán trạng thái thiết bị như: Kiểm tra phóng điện cục bộ máy biến áp 220 – 500 kV; giám sát dầu online tại trạm biến áp 500kV; sửa chữa lưới điện không cần cắt điện... Đặc biệt, giải pháp vệ sinh cách điện hotline (trên lưới điện đang mang điện) đã mang lại hiệu quả kinh tế rất cao và đạt giải Nhì tại cuộc thi Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (Vifotec) năm 2011.
Công nghệ thông tin cũng là công cụ tiện lợi, hữu ích trong việc tăng tính hiệu quả, minh bạch, cạnh tranh trong công tác đấu thầu. Từ khi thực hiện thí điểm đấu thầu qua mạng vào năm 2009 với hơn chục gói, đến nay EVN luôn luôn là đơn vị đứng đầu toàn quốc trong việc thực hiện đấu thầu qua mạng. Năm 2019, các đơn vị EVN đã thực hiện thành công 9.376 gói thầu qua mạng, chiếm tỷ lệ 48,0% tổng số gói thầu thực hiện trong năm, với tổng giá trị trúng thầu khoảng 21.700 tỷ đồng. Đến hết tháng 11/2020 thực hiện thành công 12.376 gói thầu qua mạng trên tổng số 18.738 gói thầu thực hiện trong năm, chiếm tỷ lệ 66,05% với tổng giá trị trúng thầu khoảng 36.012 tỷ đồng.
Hiện EVN đang tiếp tục triển khai nghiên cứu, phát triển các công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thực hiện chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực và dự kiến đến 2025 cơ bản hoàn thành chuyển đổi doanh nghiệp số.
6. Sáng tạo và đổi mới liên tục trong công tác kinh doanh, dịch vụ khách hàng ngày càng hiện đại và thân thiện
EVN là đơn vị đầu tiên triển khai áp dụng hóa đơn điện tử trên toàn quốc vào năm 2015. Sau đó, vào năm 2016, EVN đã đẩy mạnh quá trình chuyển đổi hình thức thu tiền điện tại nhà sang thu tiền qua điểm thu tập trung, các tổ chức trung gian thanh toán, ví điện tử và qua ngân hàng... Đến hết tháng 11 năm 2020, tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 70,25%; tỷ lệ tiền điện thanh toán không dùng tiền mặt đạt 91,54%.
Cuối năm 2018, EVN cũng đã chính thức công bố cung cấp các “Dịch vụ điện trực tuyến” cấp độ 4 - cấp độ cao nhất trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo quy định của Chính phủ, tăng tính công khai minh bạch và tạo mọi thuận lợi cho khách hàng. Cũng trong năm 2018, EVN hoàn thành việc kết nối cung cấp dịch vụ điện tại Trung tâm Hành chính công và các Cổng thông tin dịch vụ công trực tuyến tại 63/63 tỉnh/thành phố. Đây là tiền đề để đến cuối năm 2019, EVN hoàn thành đưa 12/12 dịch vụ điện mức độ 4 kết nối cổng DVCQG và cũng là doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên hoàn thành việc tích hợp, cung cấp tất cả các dịch vụ điện năng ở mức độ 4 cung cấp trên Cổng CVDQG.
Cùng với đó, chỉ số tiếp cận điện năng Việt Nam cũng có bước tiến vượt bậc, góp phần đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia. Theo kết quả đánh giá của Nhóm nghiên cứu Doing Business của Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB), chỉ số Tiếp cận điện năng năm 2019 của Việt Nam tiếp tục đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN (nằm trong nhóm ASEAN-4), đồng thời duy trì vị trí xếp hạng 27 trên tổng số 190 quốc gia/ nền kinh tế (tăng 129 bậc trong 6 năm).
7. Thực hiện tốt quá trình đổi mới và tái cơ cấu doanh nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước
Đẩy mạnh công tác cổ phần hoá, EVN đã hoàn thành cổ phần hoá và chuyển thành công ty cổ phần được 32 đơn vị (bao gồm: 8 công ty phát điện, 01 công ty phân phối điện và 23 công ty, đơn vị thuộc khối phụ trợ). Qua đó, có tác động tích cực tới công tác quản trị, điều hành và tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó, EVN cũng hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp không liên quan đến lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính hoặc lĩnh vực nhà nước không cần nắm chi phối; đảm bảo Tập đoàn Điện lực Việt Nam có cơ cấu hợp lý, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh điện.
Tập đoàn đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh các năm qua cơ bản đều có lãi. Đến thời điểm 31/12/2019 vốn nhà nước tại Tập đoàn ước đạt: 213.337 tỷ đồng, tăng 1,77 lần so với năm 2010.
Tiến tới thị trường hoá điện lực, EVN đã chủ động nghiên cứu, thiết kế và đưa vào vận hành thị trường điện nội bộ từ năm 2007, áp dụng cho các nhà máy điện thuộc Tập đoàn. Việc đưa thị trường phát điện cạnh tranh chính thức vào vận hành từ năm 2012 là bước phát triển quan trọng của ngành Điện Việt Nam, giúp hệ thống điện và thị trường điện được vận hành an toàn, ổn định. Nếu như năm 2012 mới chỉ có 32 nhà máy với tổng công suất 9.200 MW tham gia thị trường phát điện cạnh tranh thì đến cuối năm 2020 đã có 99 nhà máy điện trực tiếp tham gia cạnh tranh trên thị trường với tổng công suất khoảng 27.000 MW.
Thị trường bán buôn điện cạnh tranh vận hành chính thức từ năm 2019; hướng tới mục tiêu vận hành thị trường bán lẻ điện cạnh tranh từ năm 2021. Thành công của thị trường phát điện cạnh tranh và bước đầu thị trường bán buôn điện cạnh tranh chính thức là bước phát triển quan trọng của ngành điện Việt Nam chuyển sang cơ chế vận hành theo thị trường; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ độc quyền như phát điện, kinh doanh bán lẻ điện…
8. Năng suất lao động của toàn Tập đoàn duy trì tăng hàng năm
Trong giai đoạn 2011-2015, năng suất lao động của EVN tăng bình quân 6,8%/năm. Giai đoạn 2016-2020, Tập đoàn đề ra mục tiêu tăng năng suất lao động từ 8-10%/ năm. EVN đã triển khai nhiều giải pháp về tổ chức quản lý, về KHCN… góp phần vào việc tăng năng suất lao động, trong đó có việc thắt chặt tuyển dụng; sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý, tách bộ phận sửa chữa với bộ phận quản lý vận hành ở các khối sản xuất, truyền tải, phân phối điện… Kết quả đạt được trong những năm gần đây năng suất lao động của EVN tăng trưởng bình quân gần 10%/ năm, đạt 2,5 triệu kWh/người vào năm 2020.
9. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường trong Tập đoàn luôn được chú trọng và thực hiện tốt
EVN đã đầu tư xây dựng 29 cụm công trình, dự án nhiệt điện và 33 công trình, dự án thủy điện thuộc đối tượng phải lập, thẩm định đánh giá tác động môi trường. 100% các công trình, dự án nhà máy điện đang hoạt động đều đã được xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường trước khi vận hành. Ngoài ra, có hơn 10.000 công trình/dự án đường dây truyền tải và trạm biến áp được đầu tư xây dựng đã hoàn thiện đầy đủ các thủ tục môi trường theo quy định.
Toàn bộ các nhà máy điện đều lắp đặt đầy đủ các hệ thống xử lý môi trường nước thải và khí thải; đầu tư các hệ thống quan trắc tự động, truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường tại địa phương để theo dõi, cũng như công khai các số liệu trên các bảng điện tử tại cổng nhà máy hoặc Ủy ban Nhân dân xã. 100% các tổ máy nhiệt điện đều lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện với hiệu suất cao trên 99,7% và đặc biệt đưa hệ thống vào vận hành ngay khi khởi động. Tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ tăng từ ~ 40% trong giai đoạn 2015 - 2018 lên ~70% vào năm 2019.
10. EVN luôn thể hiện trách nhiệm với cộng đồng thông qua nhiều hoạt động an sinh xã hội được thực hiện từng năm
Giai đoạn 2010 - 2019, toàn Tập đoàn đã thực hiện nhiều hoạt động an sinh xã hội với tổng giá trị hơn 1000 tỷ đồng, bao gồm:
+ Hỗ trợ 03 huyện nghèo của tỉnh Lai Châu (Phong Thổ, Than Uyên, Tân Uyên) theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ;
+ Hỗ trợ trang thiết bị y tế; xây dựng hàng nghìn nhà tình nghĩa, nhiều trường học trên cả nước; tài trợ xây dựng công trình Nhà văn hóa đa năng ở đảo Đá Lớn C thuộc quần đảo Trường Sa.
+ Hỗ trợ, ủng hộ chính quyền và nhân dân ở nhiều địa phương khắc phục hậu quả của thiên tai, bão lụt.
+ Phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam và Quỹ Tấm lòng Việt thực hiện thành công hơn 600 ca phẫu thuật mắt từ thiện “Niềm tin Việt” cho người dân có hoàn cảnh khó khăn;
+ Phụng dưỡng trên 100 Mẹ Việt Nam Anh hùng, hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng;
+ Giảm giá điện, giảm tiền điện hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19...
Trong 5 năm gần đây, EVN còn tổ chức định kỳ Tháng Tri ân khách hàng (tháng 12 hàng năm) với nhiều hoạt động thiết thực: sửa chữa, thay mới và lắp đặt miễn phí đường dây, đèn LED cho một số trường học, các hộ gia đình nghèo và gia đình chính sách trên toàn quốc; hỗ trợ vệ sinh công nghiệp và bảo dưỡng các thiết bị điện của khách hàng, lắp đặt miễn phí điện mặt trời mái nhà cho một số trường học, hộ gia đình chính sách; hỗ trợ kiểm tra, sửa chữa miễn phí hệ thống điện nội bộ cho khách hàng sản xuất công nghiệp...
Cũng trong Tháng Tri ân khách hàng, EVN còn phối hợp với Viện Huyết học Truyền máu Trung ương tổ chức chương trình hiến máu nhân đạo - Tuần lễ hồng EVN với khoảng 10.000 đơn vị máu thu nhận được sau mỗi chương trình./.