Giải pháp để chính sách thị thực mới phát huy hiệu quả
VOV.VN - Phóng viên VOV.VN phỏng vấn chuyên gia Martin Koerner - Trưởng tiểu ban Du lịch của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) về tác động của những cải tiến của Việt Nam về thị thực nhập cảnh (visa) và giải pháp để chính sách này thực sự phát huy hiệu quả.
PV: Thưa ông, du khách quốc tế sẽ được hưởng lợi gì từ những quy định mới về thị thực nhập cảnh của Việt Nam?
Ông Martin Koener: Đầu tiên là việc kéo dài thời hạn miễn thị thực từ 15 ngày hiện tại lên 45 ngày đối với công dân các nước hiện có thể đến Việt Nam miễn thị thực, bao gồm Pháp, Đức, Italy, Tây Ban Nha, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch hoặc Thụy Điển. Như vậy du khách từ các thị trường trọng điểm của ngành du lịch Việt Nam được chào đón và khuyến khích họ ở lại lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn ở Việt Nam.
Thứ hai là nâng thời hạn thị thực điện tử (e-visa) từ 30 lên 90 ngày, với danh sách các quốc gia được cấp thị thực điện tử gồm nhiều thị trường tiềm năng mới nổi như Ấn Độ, Brazil, Mexico và Argentina. Thị thực điện tử cho phép du khách nộp đơn xin thị thực trực tuyến và nhận thị thực đơn giản, thuận tiện, không phải đến cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Quy định này sẽ đơn giản hóa thủ tục cấp thị thực và giảm chi phí cho du khách muốn đến Việt Nam.
Việc có một loại thị thực mới cho mục đích du lịch, cho phép du khách lưu trú tại Việt Nam trong tối đa 90 ngày và nhập, xuất cảnh nhiều lần sẽ đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách khác nhau. Ví dụ như du khách muốn khám phá nhiều điểm đến khác nhau tại Việt Nam, du khách muốn kết hợp công việc và nghỉ dưỡng, du khách muốn thăm người thân, bạn bè tại Việt Nam.
PV: Những thay đổi về quy định thị thực nhập cảnh có ý nghĩa thế nào với ngành du lịch Việt Nam?
Ông Martin Koener: Các quy định mới về thị thực có ý nghĩa lớn, dự kiến tác động đáng kể và tích cực đối với ngành du lịch Việt Nam; giúp Việt Nam phục hồi sau đại dịch COVID-19 bằng cách tăng lượng khách quốc tế, đặc biệt là từ các thị trường trọng điểm như châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Đây là những thị trường có nhu cầu đi lại cao và khả năng chi tiêu cao, sẽ đóng góp vào doanh thu du lịch và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam có thể thu hút thêm nhiều khách du lịch chất lượng cao, những người sẵn sàng chi nhiều tiền hơn và tôn trọng văn hóa và môi trường địa phương.
Ngoài ra, các quy định mới này sẽ tác động lan tỏa và tích cực đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác liên quan đến du lịch như vận tải, lưu trú, ẩm thực, giải trí, văn hóa nghệ thuật. Các lĩnh vực này được hưởng lợi từ nhu cầu và tiêu dùng của khách du lịch tăng lên, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân địa phương. Đổi lại, nó sẽ kích thích sự phát triển của các sản phẩm và dịch vụ du lịch mới đáp ứng nhu cầu và lợi ích cụ thể của các phân khúc thị trường khác nhau, chẳng hạn như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch mạo hiểm hoặc du lịch chăm sóc sức khỏe.
PV: Điều đó có giúp ngành du lịch Việt Nam cạnh tranh với các nước trong khu vực?
Ông Martin Koener: Các điều luật này giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của mình với tư cách là một điểm đến nổi bật trong khu vực và trên thế giới. Khi cung cấp nhiều lựa chọn thị thực linh hoạt và thuận tiện hơn, Việt Nam sẽ có thể đáp ứng nhu cầu và sở thích đa dạng của các loại khách du lịch khác nhau, chẳng hạn như khách du lịch nghỉ dưỡng, khách doanh nhân, khách lưu trú dài ngày hoặc thị trường cao cấp giàu có. Họ cũng sẽ giúp Việt Nam tạo dựng hình ảnh và danh tiếng tích cực như một đất nước thân thiện và hiếu khách, luôn chào đón du khách từ khắp nơi trên thế giới.
Những luật này cũng tạo cơ hội để Việt Nam hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thúc đẩy phát triển và giao lưu du lịch. Ví dụ, Việt Nam có thể tham gia vào các sáng kiến khu vực như Thị thực du lịch chung ASEAN hoặc Thỏa thuận hành lang du lịch ASEAN nhằm tạo thuận lợi cho du lịch xuyên biên giới và tăng cường hội nhập khu vực. Việt Nam cũng có thể thiết lập các thỏa thuận song phương hoặc đa phương với các nước để tạo ra những sản phẩm, gói du lịch chung thể hiện sự đa dạng, phong phú của thiên nhiên, văn hóa mỗi nước.
PV: Theo ông, ngành du lịch Việt Nam cần làm gì để chính sách thị thực mới phát huy hiệu quả?
Ông Martin Koener: Những chính sách thị thực mới này rất quan trọng nhưng chưa đủ để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành du lịch Việt Nam. Vẫn còn nhiều thách thức và nhiều việc phải làm để ngành du lịch vượt qua những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra và nắm bắt cơ hội trong thời kỳ hậu đại dịch Covid-19.
Theo tôi, cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ và cơ sở vật chất tại sân bay, đặc biệt là tại các thành phố lớn như TP.HCM. Nên giải quyết việc mất nhiều thời gian chờ đợi tại sân bay, bao gồm thủ tục nhập cảnh, xử lý hành lý và kiểm tra an ninh. Các sân bay cần được phát triển và nâng cấp để đáp ứng nhu cầu và mong đợi ngày càng tăng của khách du lịch, chẳng hạn như mở rộng nhà ga, đường băng và bãi đậu xe, tăng cường kết nối và khả năng tiếp cận, cung cấp nhiều tiện ích và lựa chọn giải trí hơn.
Các sản phẩm và dịch vụ du lịch phải được nâng cao chất lượng và đa dạng hơn, bằng cách đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, công nghệ và đổi mới. Các loại hình du lịch mới cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu và sở thích đang thay đổi của du khách trong thời kỳ hậu đại dịch, như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch mạo hiểm hay du lịch chăm sóc sức khỏe. Việt Nam cũng nên giới thiệu những nét độc đáo và hấp dẫn của mình, chẳng hạn như ẩm thực ngon và tốt cho sức khỏe, phong cảnh và cảnh biển tuyệt đẹp, lịch sử và văn hóa phong phú cùng các thành phố năng động.
Nâng cao năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của điểm đến Việt Nam bằng cách tăng cường các hoạt động quảng bá, tiếp thị và xây dựng thương hiệu. Việt Nam nên phát huy những lợi thế và thế mạnh riêng có của mình như di sản văn hóa và thiên nhiên phong phú, con người thân thiện và hiếu khách, nền ẩm thực đa dạng và sự ổn định chính trị. Cần quảng bá hình ảnh và danh tiếng của Việt Nam thông qua nhiều kênh và nền tảng khác nhau, chẳng hạn như mạng xã hội, đại lý du lịch trực tuyến, những người có ảnh hưởng hay blogger du lịch. Nên hỗ trợ và hợp tác với các nhà làm phim trong nước và quốc tế để sản xuất những bộ phim mô tả Việt Nam như một điểm đến đẹp và lãng mạn, chẳng hạn như phim "A Tourist Guide to Love" gần đây.
Ngoài ra, Việt Nam cần thúc đẩy du lịch xanh và có trách nhiệm, góp phần bảo tồn môi trường và phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương. Hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng để trao quyền cho người dân địa phương bảo tồn văn hóa và truyền thống của họ, cải thiện sinh kế và chia sẻ câu chuyện của họ với du khách. Thúc đẩy hợp tác, hội nhập khu vực và quốc tế trong phát triển du lịch bằng cách tham gia vào các hiệp định, sáng kiến hoặc nền tảng song phương hoặc đa phương nhằm tạo thuận lợi cho du lịch, trao đổi thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng năng lực và phát triển sản phẩm chung.
PV: Xin cảm ơn ông.