Làm công nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp phải vay lãi từ 8 – 10%/năm
VOV.VN - Chênh lệch lãi suất vay giữa doanh nghiệp CNHT trong nước và khối FDI từ 5 – 7%/năm đã làm triệt tiêu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Một trong những rào cản phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ở Việt Nam thời gian qua chính là hạn chế về chính sách. Bên cạnh đó, một số vấn đề bất cập, vướng mắc mà các quy định hiện hành của pháp luật chưa thể giải quyết để tạo ra các cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy CNHT phát triển.
Theo Bộ Công Thương, một trong những bức xúc nổi cộm về mặt chính sách phát triển CNHT không thể không kể đến là chính sách tín dụng. Hiện tại, do những đặc thù của sản xuất CNHT cũng như xuất phát điểm thấp của DN Việt Nam như DN không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn; báo cáo tài chính không khả thi do đầu tư ban đầu quá lớn, hồ sơ vay vốn khó thuyết phục cơ quan tín dụng…, điều này khiến các DN CNHT rất khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng.
Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong chuỗi giá trị toàn cầu. |
“Có thể đánh giá đây là một trong những nguyên nhân, rào cản chính khiến các DN CNHT khó khăn trong việc đầu tư sản xuất, dẫn đến việc cản sản phẩm của DN trong nước khó tham gia được vào chuỗi sản xuất toàn cầu”, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nói.
Liên quan tới vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - ông Phạm Công Tạc cho rằng, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành còn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ dẫn đến nhiều DN CNHT chưa tiếp cận được các ưu đãi theo quy định.
“Những cơ chế chính sách cũng chưa đủ mạnh về việc tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra được áp dụng rộng rãi trong thực tế, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng ứng dụng của các DN công nghệ cao trong lĩnh vực CNHT”, ông Tạc cho biết.
Mặc dù trình độ sản xuất và công nghệ của DN CNHT đã từng bước được cải thiện, nhưng các sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Năng lực tổ chức quản lý sản xuất và công nghệ kỹ thuật của phần lớn các DN CNHT Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Đáng chú ý, khoảng cách giữa yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia và năng lực đáp ứng của các DN sản xuất nội địa còn rất lớn. Một số DN Việt Nam đã tham gia cung ứng sản phẩm CNHT, nhưng rất ít DN có chiến lược phát triển dài hạn để có thể đầu tư chiều sâu về thiết bị, công nghệ, quản lý cũng như nhân lực.
Theo ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam, ngành da giày chưa có sự kết nối, chia sẻ lợi ích với các ngành công nghiệp khác như cơ khí, tự động hóa, hóa polime, môi trường ... trong việc phát triển CNHT sản xuất nguyên phụ liệu da giày.
Ngoài ra, Nhà nước và các địa phương chưa có quy hoạch cụ thể về các khu/cụm CNHT cho ngành da giày; chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu cho sản xuất nguyên phụ liệu da giày (da nguyên liệu, xơ bông, xơ nhân tạo, hóa chất…) và chưa có chính sách thiết thực khuyến kích sản xuất nguyên phụ liệu trong nước để phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Nhiều chuyên gia nhìn nhận, trong tương lai gần, ngành CNHT của Việt Nam có triển vọng phát triển lớn. Đó là cơ hội tham gia sâu của công nghiệp Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia. Trong nền sản xuất công nghiệp trên thế giới hiện nay, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò quyết định dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu.
Để không bỏ lỡ những cơ hội phát triển, ngành CNHT cần từng bước khắc phục các hạn chế đã và đang tồn tại dai dẳng. Theo Bộ Công Thương, điều kiện tiên quyết là phải có ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong nước phát triển, mở ra cơ hội thị trường cho các DN CNHT trở thành nhà cung cấp, tham gia vào chuỗi cung ứng của các DN sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng.
Bày tỏ quan điểm của mình, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho rằng, thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, ban hành các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển CNHT theo hướng tạo điều kiện để các DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT dễ dàng tiếp cận được với các ưu đãi.
Đồng thời nghiên cứu xây dựng lộ trình về tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm đối với các DN, tập đoàn đa quốc gia đầu tư, sản xuất tại Việt Nam dựa trên các lộ trình công nghệ và phát triển sản phẩm của DN sản xuất, chế tạo sản phẩm CNHT của Việt Nam.
Ở góc độ ngành da giày, ông Thuấn đề xuất, CNHT ngành da giày muốn được áp dụng các chính sách ưu đãi như đối với phát triển các CNHT khác, trong đó có những ưu đãi về khuyến khích đầu tư, các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Ông Thuấn đề nghị Bộ Tài Chính soạn thảo, trình Chính phủ phê duyệt các biện pháp tăng cường các chính sách tài chính hiện có, với những ưu đãi cao hơn đối với sản xuất nguyên phụ liệu da giày về thuế nhập khẩu nguyên liệu, thuế thu nhập DN, thuế VAT…
“Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các chính sách ưu đãi về lãi suất vay vốn ngân hàng, bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; xây dựng chương trình hỗ trợ kinh phí cho việc xây dựng các khu/cụm công nghiệp thuộc da và sản xuất các sản phẩm nguyên phụ liệu da giày”, ông Thuấn mong muốn./.
Công nghiệp hỗ trợ vẫn tập trung ở khối doanh nghiệp FDI