NHNN “thúc” đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp
VOV.VN -Bởi đây là cơ sở xây dựng một số sản phẩm tín dụng phục vụ cho các mặt hàng chủ lực như cà phê, thủy sản, lúa gạo.
Để nguồn vốn tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được khơi thông, đến đúng nơi, đúng chỗ, để ngành ngân hàng có cơ sở nghiên cứu đưa ra các sản phẩm tín dụng phù hợp đối với lĩnh vực này, NHNN vừa có văn bản đề xuất một số công việc cần sớm được triển khai.
Cụ thể, tích cực thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Đề án nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững ngành nông nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ để ngành ngân hàng có cơ sở xây dựng một số sản phẩm tín dụng phục vụ cho một số mặt hàng chủ lực như cà phê, thủy sản, lúa gạo.
Chính sách tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ cần sớm được bổ sung, sửa đổi để tạo sự liên kết bền vững giữa người sản xuất và cơ sở chế biến làm cơ sở để ngành ngân hàng thực hiện cho vay theo chuỗi liên kết ngành hàng từ các khâu sản xuất- thu mua – chế biến- xuất khẩu.
Tiếp tục nhân rộng các mô hình tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp như một số mô hình trồng lúa và nuôi cá tra tại ĐBSCL theo Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 6/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020”.
Cuối cùng là một cơ chế tăng cường hơn nữa sự phối hợp của các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương, các hiệp hội ngành nghề với ngành ngân hàng là rất cần thiết nhằm tăng tính liên kết, tạo nền tảng vững chắc để đưa nền sản xuất nhỏ lẻ hiện nay thành nền sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, đáp ứng được xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế.
Tín dụng nông nghiệp đã tăng đáng kể
Theo đánh giá của NHNN, với hệ thống chính sách đồng bộ và nhất quán được ráo riết thực hiện từ năm 1999, kết quả đầu tư cho vay của lĩnh vực nông nghiệp đã có những bước tiến vượt bậc.
Thống kê của cơ quan này cho thấy, nếu như trước khi triển khai Nghị định 41 năm 2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn mới chỉ đạt trên 292.919 tỷ đồng thì đến hết quý II/2013 con số này đã tăng gấp gần 2,2 lần và đạt 621.584 tỷ đồng.
Trong vài năm trở lại đây, tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng bình quân trong 5 năm kể từ khi có Nghị quyết 26 về tam nông đạt khoảng 18%; riêng trong 03 năm từ 2010 - 2012 tăng trưởng tín dụng bình quân đạt gần 25%, cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã từng bước được tập trung và đi sâu vào những khu vực, ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như nông, lâm, thủy sản với tỷ trọng ngày càng tăng vào những mặt hàng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Trước năm 2010, dư nợ đối với các mặt hàng này chỉ chiếm khoảng trên 10% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn thì nay tỷ trọng này luôn duy trì ở mức trên 20%. Những kết quả trên đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu các ngành hàng này với mức tăng bình quân của giai đoạn 2010 – 2012 đạt trên 30%. Riêng trong năm 2012, tín dụng ngân hàng đã góp phần đưa thành tích xuất khẩu mặt hàng nông, lâm thủy sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục 27,54 tỷ USD.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn như thiên tai, dịch bệnh; sự biến động giá liên tục của các nông hải sản trên thị trường, tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” thường xuyên xảy ra; các rào cản kỹ thuật thương mại của các nước nhập khẩu ....trong khi các biện pháp hỗ trợ giảm thiểu rủi ro như bảo hiểm sản xuất các sản phẩm nông nghiệp hiện còn chưa thực sự phát triển và mới chỉ được thí điểm ở một số địa phương nhất định.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của WTO, các sản phẩm nông lâm thủy sản của Việt Nam đang đứng cùng "sân chơi" và phải cạnh tranh bình đẳng với các nước bạn, tuy nhiên, nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam vẫn dựa trên sản xuất nhỏ, manh mún, chưa phát huy được lợi thế tiềm năng sẵn có của đất nước, sức cạnh tranh của hàng hóa còn hạn chế so với một số nước trong khu vực./.