Trà Việt và khát vọng nâng tầm quốc tế
VOV.VN - Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu trà hàng đầu thế giới, đứng thứ 7 về sản lượng. Tuy nhiên, dù có nhiều lợi thế, ngành trà Việt Nam vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và giá trị, dẫn đến giá trị xuất khẩu thấp hơn hẳn so với cùng ngành của các nước như Ấn Độ hay Sri Lanka. Vì thế trà Việt vẫn còn đó một khát vọng vươn mình.
Tiềm năng lớn chưa được tận dụng
Việt Nam sở hữu nhiều vùng chè đặc sản nổi tiếng như chè Thái Nguyên, chè Mộc Châu, chè Shan tuyết Hà Giang, hay chè Oolong Lâm Đồng. Những sản phẩm này không chỉ được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng mà còn được đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, một nghịch lý đáng buồn là khi xuất khẩu, chè Việt Nam thường không mang thương hiệu quốc gia mà bị bán dưới dạng nguyên liệu thô hoặc gia công cho các thương hiệu nước ngoài. Điều này khiến giá trị gia tăng của sản phẩm chè Việt bị giảm đáng kể.
Theo số liệu từ Hiệp hội Chè Việt Nam, năm 2024, tổng diện tích chè cả nước đạt 128.000 ha, trong đó 118.000 ha là chè kinh doanh và 10.000 ha trồng mới. Sản lượng búp tươi đạt gần 1 triệu tấn, sản lượng chè khô đạt 230.000 tấn, và sản lượng chè thành phẩm đạt 185.000 tấn. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu chỉ đạt 250 triệu USD, với giá bình quân 1,75 USD/kg, thấp hơn nhiều so với giá bình quân của các nước xuất khẩu chè hàng đầu như Ấn Độ và Sri Lanka.

Trao đổi với phóng viên VOV, ông Hoàng Vĩnh Long Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam cho biết: "Nguyên nhân chính của tình trạng này là do khâu quảng bá và xây dựng thương hiệu còn yếu kém. Trong khi các nước như Ấn Độ, Sri Lanka, hay Trung Quốc đã xây dựng được thương hiệu chè mạnh trên thị trường quốc tế, thì chè Việt Nam vẫn chưa có sự hiện diện rõ ràng. Thêm vào đó, việc thiếu liên kết giữa sản xuất và chế biến, cũng như sự manh mún trong sản xuất của các hộ nông dân nhỏ lẻ, đã khiến chất lượng sản phẩm không đồng đều và khó kiểm soát".
Một trong những thách thức lớn nhất của ngành chè Việt Nam là sự thiếu liên kết trong chuỗi sản xuất. Hiện nay, hơn 80% diện tích chè được trồng bởi các hộ nông dân nhỏ lẻ, manh mún, dẫn đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật và quy trình sản xuất tiên tiến còn hạn chế. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến năng suất mà còn làm giảm chất lượng sản phẩm, khiến chè Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, việc thiếu quy hoạch ổn định về diện tích trồng chè và đầu tư không đồng bộ cũng là những rào cản lớn. Nhiều địa phương chưa có chiến lược phát triển dài hạn, dẫn đến tình trạng sản xuất theo phong trào, không bền vững. Hơn nữa, các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chứng nhận quốc tế như VietGAP, GlobalGAP, hay hữu cơ vẫn chưa được áp dụng rộng rãi, làm giảm khả năng tiếp cận các thị trường khó tính như EU, Mỹ, hay Nhật Bản.
Giải pháp để khai thác tiềm năng và nâng cao giá trị Trà Việt
Bàn về giải pháp để khai thác tiềm năng và nâng cao giá trị của cây chè, rất nhiều các cơ quan ban ngành đã đưa ra nhiều ý tưởng khác nhau. Tuy nhiên theo ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam, chúng ta cần đến một nhóm giải pháp, thì trà việt mới có thể cất cánh. Ông nói: "Cần nhất là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị: Việc liên kết chặt chẽ giữa nông dân, doanh nghiệp và các cơ sở chế biến là chìa khóa để tạo ra sản phẩm chất lượng cao và ổn định. Mô hình liên kết nông - công nghiệp sẽ giúp kiểm soát tốt hơn từ khâu trồng trọt đến chế biến, đảm bảo an toàn thực phẩm và nâng cao giá trị sản phẩm"
Trao đổi với phóng viên VOV.VN, doanh nhân, nhà văn hóa trà Phạm Công Tuấn Hạ đã chia sẻ một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành trà Việt Nam. Ông Hạ nhấn mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong sản xuất trà, đặc biệt là các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và sản xuất bền vững. Điều này bao gồm việc sử dụng phân bón hữu cơ, giảm thiểu thuốc bảo vệ thực vật, và đạt được các chứng nhận quốc tế để giúp trà Việt Nam dễ dàng tiếp cận các thị trường cao cấp trên toàn cầu.

Ngoài ra, ông Hạ cũng đề xuất việc kết hợp trà với du lịch sinh thái, phát triển các tour trải nghiệm tại các vùng trà nổi tiếng như Thái Nguyên, Mộc Châu, Hà Giang, và Bảo Lộc. Ông chia sẻ: "Gắn kết trà với du lịch sẽ giúp quảng bá và bảo tồn văn hóa trà. Ba yếu tố Trà - Du lịch - Văn hóa cần được phát triển song song, hỗ trợ lẫn nhau. Đây không chỉ là một ý tưởng kinh tế mà còn là giải pháp tổng thể cho nhiều ngành. Nếu đầu tư phát triển văn hóa trà, chúng ta sẽ có một hệ thống di sản đồ sộ, không thua kém bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Hơn nữa, các vùng trà của Việt Nam sở hữu không gian và địa thế độc đáo, có sức hút đặc biệt đối với du lịch."
Nói thêm về vấn đề này chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng: "Cần phải coi việc phát triển trà như một mũi nhọn của chiến lược phát triển kinh tế xanh kinh tế tuần hoàn. Bởi trà Việt mang đủ các yếu tố để hội nhập quốc tế. Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, các chuyên gia cần phải xây dựng được triết lý cho trà Việt, văn hoá cho trà Việt, song song với đó là đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Rồi tăng cường hội nhập bằng cách đưa báo chí, tài liệu, phim ảnh về trà đi đến các thị trường trên thế giới," ông Phong nói.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Phương Thái, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, là người có nhiều năm gắn bó với cây trà. Trao đổi với phóng viên VOV.VN, bà Thái đã đề xuất một giải pháp, mà theo bà giải pháp này mang tính chiến lược và lâu dài nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện cho trà Việt Nam, đó là: "Chìa khóa nằm ở giáo dục. Giáo dục sẽ giúp phổ cập văn hóa, nuôi dưỡng lòng tự hào về bản sắc dân tộc, từ đó xây dựng tri thức tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển của trà Việt. Cần sớm xây dựng khung chương trình, lớp học và ngành học về trà cũng như văn hóa trà. Việc giảng dạy về trà nên được đưa vào các cấp học từ phổ thông đến cao đẳng và đại học. Điều này sẽ giúp mỗi người dân Việt Nam hiểu rõ và tự hào về những giá trị văn hóa mà mình đang sở hữu. Chỉ khi có được bản sắc riêng, chúng ta mới có thể tự tin vươn ra thế giới và khẳng định vị thế Trà Việt trên trường quốc tế."
Với những thế mạnh sẵn có, cùng một khát vọng vươn tầm chắc chắn ngành trà, văn hoá trà Việt, sẽ được nâng tầm hơn nữa, vươn rộng hơn nữa và hiện diện ở nhiều quốc gia trên thế giới, trở thành niềm tự hào của Quốc gia, của dân tộc Việt Nam.