Ỷ lại vào đầu tư từ Nhà nước sẽ tăng rủi ro an toàn nợ công
VOV.VN - Dư luận xã hội đang đặc biệt quan tâm mức độ an toàn nợ công của Việt Nam khi dư nợ Chính phủ hiện đã vượt trần cho phép.
Trước những thông tin về số dư nợ Chính phủ hiện chiếm 50,3% GDP (tức là vượt trần cho phép 0,3%) được đưa ra tại Báo cáo đánh giá bổ sung tình hình thực hiện NSNN năm 2015 của Bộ Tài chính tại phiên họp của UBTVQH ngày 7/3/2016, dư luận xã hội đang đặc biệt quan tâm đến mức độ an toàn nợ công của Việt Nam hiện nay cũng như các giải pháp để nợ công không vượt trần so vơi mức Quốc hội đề ra.
2 lý do nợ Chính phủ vượt trần
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) phân tích: Các giới hạn trần nợ cho phép giai đoạn 2011-2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Nghị quyết số 10/2011 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 là: nợ công không quá 65% GDP; nợ Chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50%GDP; và nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% thu NSNN hàng năm.
Nợ Chính phủ của nước ta hiện ở mức 50,3% GDP (Ảnh minh họa: KT) |
Đến ngày 31/12/2015, ước tính nợ công ở mức 62,2%GDP, nợ Chính phủ ở mức 50,3% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 43,1%GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ở mức 16,0% tổng thu NSNN.
Như vậy, chỉ tiêu nợ Chính phủ vượt giới hạn cho phép là 0,3%GDP. Về nguyên nhân, theo ông Long, xuất phát chủ yếu từ 2 lý do: Thứ nhất, GDP thực tế thực hiện năm 2015 giảm mạnh so với số đã dự báo tháng 10/2015 là 291,1 nghìn tỷ đồng. Thứ hai, bổ sung 30.000 tỷ đồng kế hoạch giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài năm 2015 theo Nghị quyết số 99/2015/QH13 ngày 11/11/2015 của Quốc hội về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016.
Cần giữ các chỉ tiêu nợ công trong mức trần cho phép
Ông Long cho rằng, vấn đề quan trọng nhất của công tác quản lý nợ là kiểm soát độ an toàn của nợ công. Hầu hết các quốc gia đều đặt ra các chỉ tiêu giới hạn nợ để kiểm soát tính bền vững của danh mục nợ. Do đó, việc giữ các chỉ tiêu nợ công trong mức trần cho phép là cần thiết.
Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi nhất trong an toàn nợ công phụ thuộc vào 2 yếu tố: tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn từ các khoản nợ công; khả năng trả nợ của chủ thể đi vay và khả năng đáp ứng nguồn vốn vay từ phía thị trường.
Trong khi đó, theo Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội thì có nhiều khó khăn trong vấn đề nợ công. Còn báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính cho thấy, có khả năng chỉ tiêu nợ công trên GDP sẽ vượt trần trong các năm 2016-2017.
Về thực tế này, theo ông Long, nếu giữ mức huy động vốn vay cho đầu tư như giai đoạn 2011-2015, vẫn tập trung đẩy mạnh đầu tư từ phía Nhà nước, vẫn còn tâm lý dựa vào Nhà nước mà không cần nhắc đến bối cảnh hiện tại và với tình hình cân đối ngân sách như giai đoạn vừa qua, áp lực huy động vốn vay cho đầu tư là rất lớn và việc nợ công vượt trần là có thể xảy ra, dẫn đến các rủi ro an toàn nợ công.
Để nợ công không vượt trần cho phép, ông Long đề nghị phải triển khai quyết liệt các biện pháp để đảm bảo 2 yếu tố cốt lõi của an toàn nợ công. Cụ thể: Thứ nhất, về tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay các nguồn vốn từ các khoản nợ công, theo quy định của Luật NSNN và Luật Quản lý nợ công, toàn bộ vốn vay công được sử dụng trực tiếp cho các dự án phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, các dự án trong nhiều lĩnh vực giao thông, cầu cảng, nông thôn, giảm nghèo, giáo dục, y tế... đã được triển khai và đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng đời sống người dân cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc phân bổ và sử dụng vốn trong thời gian qua còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Tình trạng mở rộng diện, quy mô, điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu diễn ra khá phổ biến, dẫn đến tăng mức vay công.
Nguồn vốn vay công được đầu tư vào tất cả các ngành, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao tính hiệu quả sử dụng vốn đòi hỏi các cấp, các ngành, các chủ dự án đều phải tăng cường trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ hơn.
Thứ hai, về khả năng trả nợ của chủ thể đi vay và khả năng đáp ứng từ thị trường. Giai đoạn 2011-2015, chúng ta đã tập trung tăng huy động vốn vay rất lớn từ việc phát hành TPCP trong nước cho đầu tư phát triển. Huy động vốn vay của Chính phủ năm 2015 đã tăng gấp đối với năm 2011. Trong đó huy động thông qua phát hành TPCP trong nước năm 2015 tăng gần 3,5 lần.
Đây là nguyên nhân dẫn đến nợ Chính phủ, nợ công tăng nhanh trong giai đoạn vừa qua và điều đó dẫn đến 2 khó khăn: Mức bố trí trả nợ so với tổng thu NSNN đã tăng từ mức khoảng 13% đầu giai đoạn lên khoảng 16% hiện nay, phát sinh nhu cầu vay mới để thanh toán một phần nợ gốc đến hạn.
Trong khi thị trường vốn trong nước chưa thực sự phát triển, trước áp lực huy động vốn lớn đã dẫn đến phải huy động vốn vay ngắn hạn (3 năm) trong những năm 2011-2013 và tạo áp lực trả nợ vào các năm 2015-2017.
Kiên quyết cắt giảm bội chi ngân sách nhà nước
Vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay cũng như 5 năm tới, trong bối cảnh NSNN còn nhiều khó khăn và diễn biến kinh tế thế giới, trong nước còn nhiều biến động khó lường, để các chỉ tiêu nợ không vượt trần cho phép, đảm bảo cho an toàn nợ công, ông Long đề nghị: Cần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia phải được đặt lên hàng đầu.
Kế hoạch đầu tư công trung hạn cần được xây dựng trong khả năng cân đối và đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa. Thu hẹp đầu tư của Nhà nước theo hướng tập trung vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, có tác dụng lan tỏa rộng. Thực hiện kiểm soát chặt chẽ danh mục đầu tư công, siết chặt phạm vi, đối tượng và điều kiện cấp bảo lãnh của Chính phủ.
Đặc biệt, cần kiên quyết cắt giảm bội chi NSNN theo lộ trình đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đề ra. Ưu tiên bố trí nguồn NSNN để chi trả nợ đến hạn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn trung - dài cho đầu tư phát triển nền kinh tế./.