Lý giải nguyên nhân Mỹ “ẵm” nhiều giải Nobel nhất thế giới
VOV.VN - Tài trợ cho nghiên cứu cơ bản và khích lệ nhà nghiên cứu trẻ và người di cư là những yếu tố giúp Mỹ trở thành quốc gia có nhiều nhà khoa học giành được giải Nobel nhất thế giới.
Không dưới 8 trong số 13 người đoạt giải Nobel năm 2021 là người Mỹ. Việc Mỹ thống trị giải Nobel là một xu hướng lịch sử gắn liền với sức mạnh của giới học thuật Mỹ và khả năng thu hút nhân tài hàng đầu thế giới.
Kể từ khi giải Nobel được trao lần đầu vào năm 1901, Mỹ là quốc gia giành được nhiều huy chương nhất, với 400 huy chương, tiếp theo là Anh với 138 huy chương và Đức với 111 huy chương.
“Tôi thực sự đánh giá cao những cơ hội được trao cho tôi ở đất nước này (Mỹ)”, Ardem Patapoutian, người đồng đoạt giải Nobel Y học năm 2021 cho những phát hiện quan trọng liên quan tới cơ chế thụ cảm nhiệt độ và xúc giác, cho biết trong cuộc họp báo sau khi giành được giải thưởng danh giá.
Ardem Patapoutian là người Mỹ gốc Armenia, lớn lên ở Lebanon, cho rằng thành công của ông đến từ Đại học California, nơi ông nhận bằng cử nhân và làm nhà nghiên cứu sau tiến sĩ, cũng như Viện Nghiên cứu Scripps – nơi ông đã làm việc trong 20 năm.
Đại học California ở thành phố San Francisco (UC) cũng là nơi làm việc của David Julius, người đồng đoạt giải Nobel Y học năm nay. Theo AFP, chỉ riêng nhân viên và giảng viên của UC đã giành được 70 giải Nobel, bằng tổng số huy chương mà Pháp sở hữu.
Tập trung vào nghiên cứu cơ bản
Syukuro Manabe, người đồng đoạt giải Nobel Vật lý năm nay, đã rời Nhật Bản vào những năm 1950 và thực hiện công trình đột phá về các mô hình khí hậu tại Đại học Princeton ở bang New Jersey, Mỹ. Manabe nói với các phóng viên rằng, ở Mỹ, ông có thể đi đến nơi mà sự tò mò dẫn dắt ông, đó là chìa khóa của thành công.
Người đồng đoạt giải Hóa học David MacMillan chuyển từ Scotland đến Mỹ vào những năm 1990. Ông cũng là giáo sư tại Đại học Princeton, nơi Maria Ressa, người Mỹ gốc Philippines đoạt giải Nobel Hòa bình năm nay, lấy bằng cử nhân vào năm 1986.
Giải Nobel Kinh tế năm 2021 đã được trao cho ba nhà kinh tế David Card, người Mỹ gốc Canada, Joshua Angrist, người Mỹ gốc Israel và Guido Imbens, người Mỹ gốc Hà Lan. Cả ông David Card và Joshua Angrist đều từng học tập tại Đại học Princeton.
“Tài trợ cho những nghiên cứu cơ bản, được định nghĩa là nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao lý thuyết khoa học hoặc hiểu biết về các đề tài, là trọng tâm của những chiến thắng của nước Mỹ”, David Baltimore, người đồng đoạt giải Nobel Y học năm 1975, nói với AFP.
“Nghiên cứu cơ bản cũng là sức mạnh và sự hỗ trợ không ngừng của các viện nghiên cứu và trường đại học của chúng tôi có được từ khi thành lập Đại học Harvard nhiều thế kỷ trước”, ông Baltimore, hiện là chủ tịch và là giáo sư sinh học tại Học viện Công nghệ California, cho biết.
Mỹ chú trọng vào nghiên cứu cơ bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và thành lập Quỹ Khoa học Quốc gia vào năm 1950, nơi tiếp tục điều phối tài trợ của liên bang cho các trường đại học ngày nay.
Từ thiện và các khoản tài trợ tư nhân cũng đóng một vai trò quan trọng trong tài chính đối với các nghiên cứu cơ bản tại Mỹ.
“Trong khi Trung Quốc đang bắt kịp Mỹ về tổng kinh phí cho nghiên cứu (496 tỷ USD so với 569 tỷ USD), Mỹ có những lợi thế liên quan đến tự do học thuật và khả năng thu hút nhân tài hàng đầu thế giới”, H.N.Cheng, chủ tịch của Hiệp hội Hóa học Mỹ, nói.
Khích lệ nhà nghiên cứu trẻ và người di cư
Giống như các quốc gia giàu có với cơ sở hạ tầng thể thao mạnh mẽ thống trị các cuộc thi quốc tế như Thế vận hội, Mỹ với tư cách là nền kinh tế số một thế giới đã trở thành một cường quốc về khoa học.
“Chẳng hạn, một nhà khoa học sẽ tìm thấy nhiều cơ hội việc làm hơn không chỉ trong giới học thuật mà còn cả trong các ngành công nghiệp, phòng thí nghiệm của chính phủ và nhiều cơ hội khác”, nhà nghiên cứu Cheng nói.
Marc Kastner, giáo sư vật lý tại Viện Công nghệ Massachusetts, nói rằng các trường đại học Mỹ có lịch sử lâu dài trong việc khen thưởng các nhà nghiên cứu trẻ sáng giá với những thí nghiệm của riêng họ.
“Ở những nơi như châu Âu và Nhật Bản, sẽ có những nhóm lớn do một giáo sư cao cấp lãnh đạo và phải đến khi người đó nghỉ hưu, một người trẻ hơn mới tham gia. Tới lúc đó, có thể họ không đưa ra những ý tưởng hay nhất nữa”, ông Kastner nói.
Catherine Dulac - nhà sinh học của Đại học Harvard, người giành được giải thưởng đột phá năm 2021 cho công trình về bản năng làm cha mẹ, đã quyết định không trở lại Pháp ở tuổi 20 vì lý do trên.
Theo AFP, nhiều người lo ngại rằng việc sụt giảm dân số nhập cư có thể là một thách thức đối với sự ưu việt của Mỹ.
“Mỹ đã xây dựng một nền văn hóa chào đón nồng hậu”, Stefano Bertuzzi, người di cư từ Italy và hiện là Giám đốc điều hành của Hiệp hội Vi sinh vật học Mỹ, nói.
Tuy nhiên, gần đây, ông Bertuzzi và ông Kastner bày tỏ sự lo lắng bởi xu hướng bài ngoại và chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng, những điều đang khiến Mỹ không còn là một điểm đến được lựa chọn của nhiều nhà nghiên cứu./.